Công Nhân Chủ
Chủ nghĩa
cộng sản là một học thuyết chính trị, kinh tế, xã
hội cực đoan, lẩn lộn và điên cuồng. Phát xuất từ
trung Âu khoảng giửa thế kỹ 19, như một kinh điển
chống lại các nhủ nghĩa tội ác khác (như chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa thực dân, tôn giáo cực đoan, quân chủ
độc tài…), chủ nghĩa cộng sản đã chống luôn cả
nhân quyền, dân chủ, tự do, lẻ phải và sự thật; và
đã trở thành một chủ nghĩa ác độc nhất trong lịch
sử nhân loại. Trong khi những lý thuyết gia phát minh và
công thức hóa chủ nghĩa cộng sản là những học giã
hoang tưởng (như Mark và Engels), thì những người thực
hiện chủ nghĩa này (những thành lập viên của đãng
cộng sản để thực thi chủ nghĩa cộng sản) là những
bọn vô sản côn đồ. Ở nước Nga, Bolshevik đã là tên
gọi đầu tiên của bọn vô sản côn đồ này và Lenin là
thủ lảnh của họ. Kể từ thời đại của Lenin, bọn
vô sản côn đồ đã lột da biến thái, thay hình đổi
dạng, đổi tên nhiều lần để tồn tại và để tiếp
tục gây tội ác.
Đệ nhị quốc
tế Cộng Sản đã bị giải thể năm 1916 vì không thể
duy trì một mặt trận thống nhất, và vì mổi chi đãng
thành viên đã phải đóng vai trò hỗ trợ chiến tranh cho
quốc gia riêng của họ. Do đó Lenin đã tạo ra đệ tam
Quốc tế cộng sản Comintern vào năm 1919 và đã gửi hai
mươi mốt điều kiện, trong đó có cái gọi là dân chủ
tập trung, đến tất cả các chi đãng xã hội châu Âu
nào muốn theo. Sự sử dụng danh từ cộng sản và chủ
nghĩa xã hội đã bị thay đổi sau năm 1917, khi những
người vô sản côn đồ Bolshevik đổi tên của họ thành
đảng Cộng sản để áp đặt một chế độ độc đảng
cho việc thực hiện các chính sách xã hội chủ nghĩa
dưới sự lảnh đạo của Lênin . Từ đó trở đi, danh
từ cộng sản đã được áp dụng vào mục tiêu của các
chi đãng xã hội được thành lập dưới cái dù của tổ
chức Comintern. Chương trình của họ kêu gọi sự kết
hợp của công nhân thế giới cho cuộc cách mạng cộng
sản, theo sau đó là việc thành lập một chế độ vô
sản chuyên chính, cũng như sự phát triển của một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng, nếu mọi sự tốt
đẹp, thì thế giới sẽ phát triển một xã hội hài hòa
giai cấp, và bộ máy nhà nước là sẻ không cần thiết
nửa. Giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản này
còn được gọi là giai đoạn dân chủ tập trung hay là
công nhân chủ, quản lý bởi bọn vô sản côn đồ.
Trong cuộc nội
chiến Nga (1918-1922), bọn vô sản côn đồ Bolshevik đã
quốc hữu hóa tất cả tư liệu sản xuất và áp đặt
một chính sách cộng sản thời chiến; các nhà máy và
đường sắt thì thuộc sự kiểm soát chặt chẽ của
chính phủ, thực phẩm thì theo hệ thống thu thập và
khẩu phần. Sau ba năm chiến tranh và các cuộc nổi loạn
Kronstadt 1921, vì sự thất bại thãm hại của chủ nghĩa
xã hội và công nhân chủ, Lenin tuyên bố chính sách kinh
tế mới (NEP) năm 1921, để thành lập một hệ thống chủ
nghĩa tư bản hạn chế trong một thời gian và không gian
giới hạn; và họ bắt đầu giới thiệu một số quản
lý kiểu tư sản của ngành công nghiệp. NEP kéo dài tới
năm 1928, khi Joseph Stalin đoạt được chức lãnh đạo
Đảng, thì sự ra đời của Kế Hoạch Năm Năm đầu tiên
đã kết thúc nó. Sau cuộc nội chiến Nga, vào năm 1922
bọn vô sản côn đồ Bolshevik đã thành lập Liên hiệp
các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (còn gọi là Liên
Bang Xô Viết hay Liên Xô) từ Đế quốc Nga cũ.
Chuyên
Chính Vô Sản
Sự thất bại
cũa dân chủ tập trung vào giai cấp công nhân đã đưa
bọn vô sản côn đồ đến chuyên chính vô sản; đây là
một sự biến thái chính trị của chủ nghĩa cộng sản
vào con đường tội ác. Bọn vô sản côn đồ trường
phái Stalin đã rình rập cơ hội và đã thành công trong
việc biến thái bộ mặt chính trị cộng sản Nga vào con
đường độc tài đãng trị. Thật ra chủ nghĩa xả hội
không thể thích hợp với dân chủ pháp trị, vì muốn có
dân chủ pháp trị thì phải có tự do kinh tế; cho nên
con đường độc tài đãng trị là con đường bọn vô
sản côn đồ phải đi vì chúng chống lại dân chủ tự
do.
Sau giai đoạn
dân chủ tập trung của Lenin, các đảng cộng sản đã
được tổ chức trên một cơ sở phân cấp kim tự tháp,
với các tế bào của các thành viên cộng sản quốc tế
hoạt động theo dạng cơ sở rộng; các cơ sở này đã
được lập lên từ những cán bộ ưu tú được các
thành viên cao hơn của đảng cộng sản Nga chấp thuận
là đáng tin cậy và hoàn toàn tuân hành kỷ luật đảng.
Giai đoạn này của chủ nghĩa cộng sản được gọi là
giai đoạn chuyên chính vô sản. Quyền hành chính trị bị
đãng cộng sản tước đoạt một cách chính thức dưới
chiêu bài “dân làm chủ, đãng lảnh đạo và nhà nước
quản lý”; mà thực chất chỉ là một sự tước đoạt
quyền hành tập trung vào tay bọn vô sản côn đồ.
Sau Thế chiến
II, bọn vô sản côn đồ Bolshevik hợp nhất quyền lực ở
Trung Âu và Đông Âu, và chúng tiếp tế cho bọn vô sản
côn đồ Á châu bành trướng bằng bạo lực. Vào năm
1949, bọn vô sản côn đồ Trung Quốc (CPC) do Mao Trạch
Đông lãnh đạo, cướp được Trung Hoa và thành lập nước
Cộng hòa nhân dân Trung Quốc; sau đó chúng đã theo con
đường ý thức hệ riêng của chúng để phát triển chủ
nghĩa Cộng sản ở Trung Hoa. Bọn vô sản côn đồ Cuba,
Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Lào, Campuchia, Angola và
Mozambique cũng đã phát triển và đã thông qua hoặc áp
đặt những chính phủ cộng sản tại một số thời điểm
về sau. Tới đầu năm 1980 gần một phần ba dân số thế
giới sống ở các quốc gia Cộng sản, bao gồm cả Liên
Xô trước đây và Cộng hòa nhân dân Trung Quốc.
Bành Trướng
Nhờ chiến
thắng của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai
vào năm 1945, Chủ nghĩa cộng sản đã được củng cố
rất bao la bởi những chiến thắng nối tiếp trong việc
thu nhập nhiều quốc gia mới vào bán cầu ảnh hưởng
của Liên Xô với sức mạnh quân sự hung hãn của họ ở
Trung Âu và Đông Âu. Những chính phủ theo mô hình cộng
sản Xô Viết đã lên nắm quyền ở Bulgaria, Tiệp Khắc,
Đông Đức, Ba Lan, Hungary và Romania với sự hỗ trợ của
Liên Xô. Quân đội Liên Xô đã chiếm đóng những quốc
gia không chỉ ở Trung Âu và Đông Âu, mà còn ở Đông Á;
kết quả là chủ nghĩa cộng sản trở thành một phong
trào lan rộng đến nhiều quốc gia mới. Việc mở rộng
của chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và châu Á đã mang
đến một vài biến thể khác nhau, chẳng hạn như chủ
nghĩa Mao của cộng sản Trung Hoa và Titoist ở Nam Tư. Tại
Nam Tư, một chính quyền cộng sản cũng đã được tạo
ra bởi thống chế Tito, nhưng chính sách độc lập của
Tito đã dẫn đến việc Nam Tư bị trục xuất ra khỏi
Comintern. Titoist, một chi nhánh mới trong phong trào cộng
sản thế giới ở Nam Tư, đã bị dán nhãn ”lạc đường”.
Albania cũng đã trở thành một quốc gia cộng sản độc
lập sau Thế chiến II.
Cộng sản
Trung Hoa đã chiếm tất cả Trung Hoa đại lục năm 1949 ,
do đó họ đã kiểm soát được toàn cỏi quốc gia đông
dân nhất trên thế giới này. Các khu vực khác trong vùng
đông Á, do đó cũng bị sự gia tăng sức mạnh dây chuyền
của cộng sản gây nên bất đồng, và trong một số
trường hợp đã dẫn đến đấu tranh (chiến tranh du kích
và quy ước); bao gồm là chiến tranh Triều Tiên, Lào, và
đặc biệt thành công là trong trường hợp chiến tranh
Việt Nam chống lại sức mạnh của Hoa Kỳ và các đồng
minh. Với mức độ thành công khác nhau, bọn vô sản côn
đồ đã cố gắng kết hợp giả tạo với các lực lượng
quốc gia và xã hội chống lại những gì họ gọi là chủ
nghĩa đế quốc phương Tây ở những nước nghèo của
thế giới thứ III.
Đãng
Việt Cộng
Hồ Chí Minh là danh hiệu của
một tên đầu sỏ việt cộng có lý lịch rất mơ hồ.
Nguyễn Tất Thành đuợc coi là tên thật của một tên
tay sai quốc tế cộng sản Comintern trường phái Stalin,
đặc trách đông phương bộ, có nhiệm vụ bành trướng
chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương. Tên vô sản côn đồ
trường phái Stalin này đã có rất nhiều tên và danh hiệu
như Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh v…v…Và
ngay cả sự thật về tông tích của những danh hiệu này,
có phải là của một hay nhiều người khác nhau, cũng còn
trong nghi vấn. Sau đây là trích dẩn Wikepedia về tông
tích của đãng việt cộng; tài liệu này cho thấy hai bản
chất “ngoại bang và biến thái” của bọn vô sản côn
đồ Việt Nam.
“Đảng Cộng sản Việt Nam
(viết tắt là Đãng Việt Cộng) do Nguyễn Ái Quốc (đại
biểu của Quốc tế Cộng sản) triệu tập các đại biểu
cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến
ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống
nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ
một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại
căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long
(Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930,
đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ… Hội nghị quyết định
thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện
quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông
từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được
đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của
Đệ Tam Quốc Tế và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí
thư đầu tiên… Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do Hà Huy Tập
chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua
các điều lệ, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
…Việc này đòi hỏi Đảng Cộng
sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại
Đông Dương là đồng minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tháng 7 năm 1936 do Lê Hồng Phong chủ trì
tổ chức tại Thượng Hải, Đảng đã tạm bỏ khẩu
hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch
thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà
lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông
Dương. Tháng 3 năm 1938, Hội nghị Trung ương do Hà Huy Tập
chủ trì họp ở Hóc Môn, Sài Gòn đã đổi tên Mặt trận
là Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương…”.
Tài liệu cho thấy những con rắn
độc đầu sỏ của bọn vô sản côn đồ Việt Nam là
sản phẩm của Comintern Stalinist, và đãng cộng sản Việt
Nam đã được thai nghén bên Nga nhưng đẻ ra ở bên tàu.
VớI mục đích nhuộm đỏ Đông Dương phục vụ cộng
sản quốc tế, bọn vô sản côn đồ Việt Nam (việt
cộng) đã lường gạt dân Việt Nam bằng mọI thủ đoạn
và đã lôi cổ nước Việt Nam vào bốn cuộc chiến tang
thương liên tục, để sau này, chúng biến nước Viet Nam
thành một đống rác khổng lồ của chủ nghĩa tư bản
đỏ trường phái Đặng Tiểu Bình, một thuộc địa kiểu
mới của tàu cộng.
Sụp
Đổ
Sự tuyên
truyền giáo điều dưới chế độ cộng sản đã để
lại một di sản của sự lãnh đạm và thờ ơ về đất
nước mình của người dân trong các nước cộng sản,
cũng như đã phổ biến sự xảo trá và thái độ khinh
thị với những lời chỉ trích. Sự suy thoái môi trường
trầm trọng trong các nước xã hội chủ nghĩa, ô nhiễm
không khí, ô nhiễm nước ngầm, thảm họa rò rỉ lò
nguyên tử Trabant và Chernobyl đã trở thành biểu tượng
của chủ nghĩa cộng sản.
Vào những năm
1980, gần như tất cả các nền kinh tế của khối Đông
Âu cộng sản đã bị trì trệ, tụt lại xa phía sau những
tiến bộ công nghệ của phương Tây và khối tự do. Các
hệ thống, dựa vào quy hoạch của đảng-và nhà nước ở
tất cả các cấp, đã kết thúc bằng sự sụp đổ dưới
trọng lượng tích lũy của sự thiếu hiệu quả kinh tế;
mặc dù với các nỗ lực cải cách khác nhau cũng chỉ
đơn thuần góp phần đẩy nhanh xu hướng tạo ra thêm
khủng hoảng. Ở Ba Lan, hơn 60% dân số sống trong nghèo
đói, và nạn lạm phát, được đo bằng tỷ lệ thị
trường chợ đen của đồng đô la Mỹ là 1.500% trong giai
đoạn 1982 – 1987
Năm 1985 , sự
tiếp nối quyền lực ở Liên Xô bởi một nhà cải cách
, Mikhail Gorbachev , đã mở đường cho những cải cách
chính trị và kinh tế ở phía trung đông của châu Âu.
Gorbachev đã từ bỏ "Học thuyết Brezhnev" - chính
sách can thiệp quân sự , nếu cần thiết, để bảo vệ
chế độ cộng sản trong khu vực của Liên Xô. Thay vào
đó, ông khuyến khích các nhà lãnh đạo cộng sản địa
phương tìm kiếm cách thức mới để đạt được sự hỗ
trợ của nhân dân cho quyền lực của họ. Ở Hungary,
chính quyền cộng sản bắt đầu cải cách năm 1989 và đã
dẫn đến việc hình thành hệ thống đa đảng và bầu
cử cạnh tranh. Ở Ba Lan, những người cộng sản đã
phải chịu ngồi vào các cuộc đàm phán bàn tròn với
một công đoàn đoàn kết đang đuợc hồi sinh . Kết quả
là, Ba Lan đã tổ chức cuộc bầu cử cạnh tranh đầu
tiên kể từ khi chiến tranh thế giới II , và trong năm
1989, công đoàn đoàn kết Ba Lan đã thành lập một chính
phủ phi cộng sản đầu tiên trong khối Xô Viết từ năm
1948. Lấy cảm hứng từ các cải cách ở các nước láng
giềng của họ, dân đông Đức đã xuống đường vào
mùa hè và mùa thu năm 1989 để kêu gọi cải cách , bao
gồm cả việc tự do tham quan Tây Bá Linh và Tây Đức.
Moscow đã từ chối việc sử dụng lực lượng quân sự
đến giúp cho chế độ đang sụp đổ của nhà lãnh đạo
cộng sản Đông Đức Erich Honecker và đã dẫn đến sự
thay thế ông ta và châm ngòi cho những cải cách chính trị
ở đông Đức, việc này đã dẫn đến quyết định định
mệnh mở cửa khẩu biên giới nuớc Đức vào đêm ngày
09 tháng 11 năm 1989 .
Vào đêm 09
tháng 11, 1989, bức tường Bá Linh - biểu tượng mạnh
nhất của việc phân chia chiến tranh lạnh ở Châu Âu
–sụp đổ. Đầu ngày hôm đó, chính quyền cộng sản
Cộng hoà Dân chủ Đức đã công bố việc loại bỏ các
hạn chế du lịch từ bên dân chủ Tây Bá Linh. Hàng ngàn
người Đông Đức tràn vào phương Tây; và trong quá trình
một đêm, dân chúng hoan hỉ ở cả hai bên bức tường
đã bắt đầu xô nó xuống.
Sự sụp đổ
của Bức tường Bá Linh là đỉnh cao của những thay đổi
mang tính cách mạng sâu rộng cho các nước phía đông của
trung Âu vào năm 1989. Trong toàn khối Xô Viết, các nhà
cải cách nắm lấy quyền lực và kết thúc hơn 40 năm
chế độ cộng sản độc tài. Phong trào cải cách kết
thúc chủ nghĩa cộng sản ở phía đông Âu đã bắt đầu
ở Ba Lan. Phong trào đoàn kết, một công đoàn chống cộng
sản và cũng là một phong trào xã hội, đã buộc chính
quyền cộng sản Ba Lan công nhận nó vào năm 1980 qua một
làn sóng đình công đã đạt được sự chú ý của quốc
tế. Trong năm 1981, chính quyền cộng sản của Ba Lan, dưới
áp lực từ Moscow, tuyên bố thiết quân luật, bắt giữ
các nhà lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, và cấm các công
đoàn dân chủ. Lệnh cấm đã không mang lại sự chấm
hết cho công đoàn Đoàn kết. Phong trào này chỉ đơn
giản đi ngầm hoạt động bí mật, và những ngườI Ba
Lan nổi loạn đã tổ chức xã hội dân sự, riêng biệt
khỏI chính phủ cộng sản và những bó buộc của nó.
Trong
sự thức tỉnh của bức tường Bá Linh sụp đổ, người
dân Séc và Slovakia cũng đã xuống đường để yêu cầu
cải cách chính trị ở Tiệp Khắc. Dẫn đầu các cuộc
biểu tình ở Prague là nhà viết kịch bất đồng chính
kiến Vaclav Havel, người đồng sáng lập của nhóm
cải cách Hiến chương 77. Đảng Cộng sản Tiệp Khắc
lặng lẽ và hòa hoãn chuyển giao quyền lực cho Havel và
các nhà cải cách Tiệp Khắc vào cái được mệnh danh
sau đó là "cách mạng nhung". Ở Romania, chế độ
cộng sản với đường lối cứng rắn của Nicolae
Ceausescu đã bị lật đổ bởi những cuộc biểu tình
phổ biến và một cuộc đão chánh võ lực trong tháng 12
năm 1989. Ngay sau đó, các đảng cộng sản của Bulgaria và
Albania cũng phải nhường quyền.
Các
cuộc cách mạng năm 1989 đã đánh dấu thật sự hồi
chuông báo tử của chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu. Kết
quả là, không chỉ nuớc Đức đuợc dân chủ thống nhất
vào năm 1990, nhưng ngay sau đó, cuộc cách mạng đã lan
rộng đến Liên Xô. Sau khi sống sót một cuộc đảo
chính của phần tử bảo thủ cứng rắn trong năm 1991,
Gorbachev đã buộc phải nhường lại quyền lực ở Nga
cho Boris Yeltsin, người đã giám sát sự tan rã của cộng
sản Liên Xô.
Sự
sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở trung đông châu Âu
và Liên Xô đã đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh
Lạnh. Các chính sách dài hạn của Mỹ nhằm ngăn ngừa
sự bành truớng của Liên Xô đồng thời khuyến khích
cải cách dân chủ ở Trung và Đông Âu thông qua sự trao
đổi khoa học và văn hóa, chính sách thông tin (ví dụ
như đài Châu Âu và Radio Liberty và ví dụ của riêng
thông tin nuớc Mỹ), đã hỗ trợ đắc lực cho các dân
tộc trung đông châu Âu trong các cuộc đấu tranh cho tự
do cho đến hôm nay.
Tư
bản Đỏ
Trong khi bọn
vô sản côn đồ ở cái nôi của chủ nghĩa đã phải
giải thể thì bọn vô sản côn đồ Á châu nhất định
không chịu chết. Cộng sản Á Châu truờng phái Đặng
Tiểu Bình và bè lủ tay sai đã biến thái một lần nửa
để tồn tại và để tiếp tục gây tội ác. Thật ra,
Đặng Tiểu Bình và bè lủ tay sai tàu cộng đã phản bội
chủ nghĩa cộng sản trước nhất trong hệ thống
Comintern (tiếp theo là bè lủ vô sản côn đồ Việt Nam,
việt cộng). Nhưng để luờng gạt chúng đã trộn lẩn
hai thái cực tội ác -cộng sản chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa- và chúng đã biến thái thành một bọn côn
đồ không vô sản mà thế giới gọi là “tư bản
đỏ”. Sự thật là thế giới tự do không có chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa tư bản trong quá khứ là danh xưng của
cộng sản đặt tên cho một loại thực dân nội hoá mà
nó đã chết theo chủ nghĩa thực dân sau chiến tranh thế
giới thứ hai. Các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ, Canada,
Úc, Nhật bản, và Âu châu... không có chủ nghĩa tư bản
mà chỉ có HỆ THỐNG KINH TẾ TƯ BẢN DÂN CHỦ tuân luật
pháp, và là nền tãng kinh tế lành mạnh cho công ăn việc
làm của nguời dân. Tư bản dân chủ không bóc lột và
nguời công nhân có rất nhiều quyền lợi đuợc điều
đình qua công đoàn và đuợc bảo vệ bởi luật pháp
(như luơng tối thiểu). Do đó nguời dân trong các quốc
gia dân chủ có tiền và có mãi lực (mua xắm) nên kinh
tế luôn luôn phát triển, chỉ chậm hay nhanh mà thôi.
Dựng đứng thây ma tội ác cuả chủ nghĩa tư bản, Việt
cộng nhồi sọ dân VN về chủ nghĩa tư bản như sau:
“Chủ
nghĩa tư bản là chế độ một bọn ít người bóc lột
và thống trị đại đa số nhân dân. Song bọn ấy là bọn
tư bản, chứ không phải là bọn phong kiến. Cách đây
vài trǎm nǎm, các nước phương Tây bắt đầu có máy
móc, có công nghệ và có chế độ tư bản. Dưới chế
độ ấy, bọn tư bản chiếm các tư liệu sản xuất (như
nhà máy, nguyên liệu…) làm của riêng. Nhưng tự họ
không lao động, mà thuê công nhân sản xuất để bóc lột
công nhân. Công nhân phải bán sức lao động mới có ǎn.
Ngoài sức lao động, họ không có máy móc và nguyên liệu
gì cả. Cho nên công nhân là giai cấp vô sản. Công nhân
sản xuất các thứ của cải, song của cải ấy đều
thành của cải của nhà tư bản. Bọn tư bản chỉ trả
cho công nhân một số tiền công rất ít. Nhà tư bản
thuê công nhân mục đích là cốt kiếm lãi. Công nhân vì
không có tư liệu sản xuất, mà phải chịu bọn tư bản
bóc lột. Vì vậy, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản
là: 1- Máy móc là chủ chốt của tư liệu sản xuất.
Dùng máy móc phải tập trung đông người. Do đó, để
sản xuất, thì sức lao động hoá ra tập thể. 2- Nhà tư
bản chiếm hết mọi tư liệu sản xuất, họ dùng chế
độ tiền công để bóc lột công nhân. Về mặt sản
xuất, so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản
là một tiến bộ to. Phong kiến, chỉ nhờ sức người và
sức súc vật mà sản xuất. Tư bản thì dùng máy móc mà
sản xuất. Dùng máy móc tái sản xuất gấp 10, gấp 100,
mà người ta lại ít khó nhọc hơn. Tư bản sản xuất
rất nhiều, song không phải để cho mọi người được
hưởng. Vì các tư liệu sản xuất đã bị nhà tư bản
chiếm làm của riêng. Đó là một tình trạng rất không
hợp lý. Tình trạng đó sinh ra nhiều khó khǎn mà nhà tư
bản không thể giải quyết: nhà tư bản sản xuất là
cốt để bán. Thí dụ, họ sản xuất hàng vạn đôi
giầy, không phải để họ dùng, mà để bán. Trong xã hội
tư bản, đại đa số nhân dân đã thành nghèo khó, thì
bán cho ai ? Vì vậy, mà thường có khủng hoảng kinh tế,
vì sản xuất quá nhiều. Lao động đã tập thể, thì các
tư liệu sản xuất và những thứ sản xuất ra, phải là
của chung mới đúng. Nhà tư bản chẳng những bóc lột
công nhân trong nước họ, mà còn xâm lược và bóc lột
các nước khác. Do đó, chủ nghĩa tư bản trở nên chủ
nghĩa đế quốc” (trích sách giáo khoa của việt
cộng).
Ngày
hôm nay, cái gọi là chủ nghĩa tư bản đầy tội ác này
đang đuợc hồi sinh bởi lủ vô sản côn đồ tàu cộng
và đang phát triển mạnh mẻ ở hai nuớc tàu cộng và
việt cộng. Tại sao chúng chống tư bản mà chúng lại
ruớc tư bản vào? Tại vì chúng cần tiền của tư bản
ngoại bang để thi hành chủ nghĩa tư bản tội ác và đổ
thừa tội ác vào bọn tư bản ngoại bang mà chúng quỳ
lạy ruớc vào. Bọn vô sản côn đồ tàu cộng và việt
cộng đã biến thái thành tư bản (đỏ) côn đồ để
tiếp tục gây tội ác thực dân mới trong nuớc và chúng
đang tìm mọi cách truyền nhiễm tội ác này đến các
nuớc nghèo (như Ấn Độ, Phi Châu...). Điều khôi hài là
những gì chúng trơ trẻn nhồi sọ để hù dọa nguời
dân về chủ nghĩa tư bản là những gì đang xảy ra trong
nuớc của chúng y hệt những gì chúng nói: đó là lạm
phát, thất nghiệp, thặng dư sản xuất mà thiếu thốn
tiêu thụ... Thêm nửa, đúng như những gì chúng hù dọa,
vì lủ tư bản đỏ cấu kết làm tay sai cho tư bản ngoại
bang độc quyền chiếm hửu tư liệu sản xuất bóc lột
dã man nên công nhân tàu và việt nam không có mãi lực,
cho nên hàng hoá phải xuất khẩu như đổ rác những sản
xuất rẻ tiền và độc hại. Do đó chũ nghĩa tư bản
đang biến tàu cộng trở nên chủ nghĩa đế quốc bành
truớng hung hăng cuớp biển, cuớp tài nguyên, ăn hiếp và
gây hấn các nuớc láng giềng, và tạo nên sự bất ổn
cho an ninh khu vực.
Ở nuớc tàu cộng , cái gọi là cải cách
kinh tế theo tư bản chủ nghĩa tội ác này (capitalism) bắt
đầu vào năm 1978 và xảy ra trong hai giai đoạn. Giai đoạn
đầu tiên , vào những năm cuối thập niên 1970 và đầu
những năm 1980 , liên quan đến việc phi tập thể hóa
nông nghiệp (tư hửu hóa nông nghiệp), việc mở cửa của
đất nước để đầu tư nước ngoài , và việc cho phép
cho tư nhân bắt đầu lên các doanh nghiệp. Tuy nhiên , hầu
hết ngành công nghiệp và kỷ nghệ vẫn là của nhà
nước. Giai đoạn thứ hai của cải cách, trong cuối những
năm 1980 và 1990, liên quan đến việc tư nhân hóa và ký
kết hợp đồng tư nhân của nhiều ngành công nghiệp nhà
nước, và việc dỡ bỏ sự kiểm soát giá cả, chính
sách bảo hộ và các quy định thuơng mãi, mặc dù các
công ty độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực như ngân
hàng hay dầu khí vẫn còn (của nhà nuớc). Khu vực kinh
tế tư nhân đã tăng đáng kể , chiếm đến 70 phần trăm
GDP của Trung Quốc năm 2005, một con số lớn hơn so với
nhiều quốc gia phương Tây . Từ năm 1978 đến 2010, kinh
tế tàu cộng tăng trưởng chưa từng xảy ra, với nền
kinh tế tăng 9,5 % một năm, nền kinh tế của Trung Quốc
đã trở thành lớn thứ hai sau Hoa Kỳ.
Ruớc tư bản
ngoại bang vào làm tay sai cho chúng trong khi nguời dân chưa
có khả năng cạnh tranh là tội ác buôn dân bán nuớc và
phản quốc mà một chính quyền dân chủ quốc gia không
bao giờ làm. Cho nên những thành quả kể trên không phải
cho dân tàu mà là cho bọn tư bản côn đồ tàu cộng mà
thôi, cái gọi là kinh tế tư nhân cũng chỉ là mỹ danh
cho giai cấp thống trị kinh tế tư bản đỏ. Năm
2010, Trung Quốc được xếp hạng thứ 140 trong số 179
quốc gia trong Chỉ số kinh tế Tự do Thế giới xếp
hạng, tuy đó là một sự cải tiến so với năm trước.
Tại sao kinh tế giàu có tăng truỡng như hỏa tiển mà
nguời dân vẩn nghèo đói lẹt đẹt như ốc sên? Tại vì
sự tăng truởng kinh tế dựa vào ngoại bang và phục vụ
ngọai bang, và sự phồn vinh tư bản chủ nghĩa tội ác
chỉ là giả tạo và nguời dân tàu và VN sẻ không bao
giờ thóat cãnh lầm than nghèo đói trong mô hình kinh tế
tội ác như vậy.
Sự
biến thái thành tư bản đỏ của bọn vô sản côn đồ Á châu là một nổ
lực điên cuồng cuối cùng chạy theo tội ác chống lại
dân chủ tự do để duy trì quyền thống trị của chúng. Giống như
con khũng long chỉ phát triển cơ bắp mà không bộ não, những
con heo tư bản đỏ tàu cộng và việt cộng sẻ bội thực
và sẻ bị nguời dân chém một nhát dao cuối cùng. Cách
mạng dân chủ đang xảy ra khắp nơi vì ảnh huởng trực
tiếp hay gián tiếp của hệ thống tư bản đỏ đầy tội
ác này và chắc chắn cuộc cách mạng dân chủ lớn bắt
buộc phải xảy ra ở Trung Hoa để lọai trừ vĩnh viển
bọn vô sản côn đồ ra khỏi nuớc tàu và như vậy mới
chấm dứt một chủ nghĩa ác độc nguy hiễm nhất của
nhân lọai.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.