Năm 2001, Trung
Quốc gia nhập
Tổ chức Thương
mại Thế giới với
sự hỗ trợ mạnh
mẽ của một Tổng thống Hoa Kỳ
thuộc đảng Dân chủ
mỹ, và của
Quốc hội Hoa Kỳ đa số là đảng
Cộng hòa. Nhưng trước
khi mực kịp
khô trên
thỏa thuận
thương mại tự do
này, Trung
Quốc đã bắt
đầu tràn ngập
thị trường Mỹ
với hàng hóa có
kim ngạch xuất khẩu
đuợc hậu thuẩn
bất hợp pháp
bởi chính quyền tàu cộng, trong khi
cùng lúc đó các công ty
lớn của mỹ
đã vận
động rất
nhiều cho các
sự thỏa thuận
để nhanh chóng
đẩy mạnh việc đem
công ăn việc làm
của dân Mỹ
sang Trung Quốc.
Sự tăng trưởng của
Trung Quốc so sánh một cách tương đối với kinh tế Hoa
Kỳ là do vị trí và điều kiện mà chính quyền tàu
cộng có để thi hành các tội ác kinh tế thuơng mãi và
xã hội miển truy tố. Như những tội phạm về ô nhiễm
môi trường, về quyền lao động (chính phủ tổ chức
một hệ thống nô lệ lao động để chúng quản lý phục
vụ tư bản ngoại bang, điều mà các chính quyền dân chủ
không được phép làm), về thao túng tiền tệ, về hàng
giả mạo, về vi phạm bản quyền và về thông đồng
xuất khẩu bất hợp pháp. Nên sự kết nạp
Trung Quốc gia
nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới vào
năm 2001 đã
tạo thảm họa cho nền kinh tế Mỹ nói riêng (và thế
giới nói chung). Sự
tràn ngập của hàng
hóa đầy tội ác của tàu cộng đã làm cho các nhà sản
xuất Mỹ
và thế giới không thể cạnh tranh,
vì các nhà lãnh đạo
tàu cộng đã
không chừa một tội ác man trá và trơ trẻn nào để
phục vụ và dụ dổ tư bản đầu tư (kể cả bóc lột
chất xám và chúng bóc lột chất xám rất dã man) mục
đích chính là để bảo đảm sản
phẩm của
chúng xuất
cãng rẻ mạt.
Kết quả của
trò chơi vỏ
sò kinh tế lớn nhất trong
lịch sử nước Mỹ này là
Trung Quốc đã
đánh cắp hàng
triệu công ăn
việc làm của
dân mỹ, kể
từ khi Trung
Quốc bắt đầu tràn
ngập thị
trường Mỹ với
các sản phẩm được
hổ trợ bất hợp pháp từ
năm 2001, hơn
50.000 nhà máy
của Mỹ đã
biến mất, hơn
25 triệu người
Mỹ không thể
tìm thấy một
công việc xứng đáng, trong khi lợi
nhuận của tư bản đỏ và tư bản quốc tế
tăng vọt, thì
nhân dân nước mỹ nợ
hơn 3 nghìn tỷ
đô la cho cái
quốc gia độc
tài toàn trị lớn
nhất thế giới đó.
Ngạc nhiên thay, đối mặt với vấn đề
cấp bách nhất nước Mỹ ngày nay – đó là mối quan hệ
kinh tế thương mại ngày càng hủy hoại với một Trung
Quốc ngày càng tăng truởng trong tội ác– một quốc gia
đông dân nhất
thế giới và
sắp được
trở thành nền kinh tế lớn
nhất thế giới đang nhanh chóng
trở thành một
tên sát thủ
kinh tế tư bản dân chủ lành mạnh của thế giới hiệu
quả nhất hành
tinh thông qua
các sản phẩm
kém chất lượng,
thậm chí độc
hại. Chủ nghĩa tư bản tội ác
trường phái Marx Angel bỉ ổi của tàu cộng, sự thao
túng thị truờng trái luật pháp kinh tế tự do cùng với
vủ khí bảo thủ quyền lợi tư bản của chúng đã thu
tóm kỷ nghệ sản xuất của Hoa Kỳ, từng công việc
một. Vậy mà các giám đốc điều
hành của Mỹ,
các chính trị gia,
và thậm chí
các học giã Hoa Kỳ vẩn giữ im
lặng về mối
đe dọa lồ lộ
đó.
Trong khi đó ở Đài Loan, người dân đã
phản ứng. Cũng như các tổng thống của đãng cộng hòa
ở mỹ, tổng thống Đài Loan Mã Yến Cửu cho rằng
hiệp ước của ông với trung quốc
là một phần thưởng cho (tư bản)
Đài Loan nhờ vào khuynh hướng hòa
giải hơn với
Trung Quốc mà ông đã theo đuổi kể
từ khi ông trở
thành tổng thống. Nguợc lại, các
sinh viên chiếm
cơ quan lập pháp,
cũng như các đảng đối lập
ũng hộ họ,
cho rằng các
thỏa thuận thương mại
với tàu cộng sẽ dẫn đến
một làn sóng các
doanh nghiệp Trung Quốc
tràn vào dùng
tiền áp đảo
đối thủ cạnh tranh
Đài Loan, và
sử dụng lao
động đại
lục bóc lột có hệ thống giá
rẻ hơn
Đài Loan, đe dọa
quyền tự do
cơ bản trong
các lĩnh vực như
xuất bản, điều đình công đoàn...
Họ cáo buộc
chính phủ của
ông Mã là đã
quá bí mật
trong việc đàm phán
các điều khoản
đó.
Mặc dù nền
kinh tế Trung
Quốc tăng
trưởng nhanh chóng
trong thập kỷ qua, hơn 482
triệu người
ở Trung Quốc -
36% dân số -
sống dưới mức
2 USD một ngày.
Trong tổng
số người
nghèo của Trung Quốc, 85% sống trong
khu vực nông thôn
và nhiều số trong lực lượng
nghèo đói cùng cực
này rời khỏi
vùng nông thôn
tìm kiếm việc
làm trong khu
vực đô thị. Tuy được
mệnh danh là nhà
máy gia công của
cả thế giới, nền
kinh tế công
nghiệp định
hướng (cái gọi là tư bản chủ
nghĩa) của tàu cộng chỉ
dựa vào sức
lao động rẻ mạt của những
công nhân di dân vốn chiếm đa số
lực lượng lao động.
Có khoảng 150
triệu lao động
di cư nội địa
ở Trung Quốc,
bởi vì tình trạng cư trú bất hợp
pháp của họ, họ đã không
nhận được bất
kỳ lợi ích địa trú hoặc
bảo vệ nào của nhà
nước (cái gọi là xã hội chủ nghĩa).
Họ phải
chịu đựng điều
kiện làm việc
tồi tệ như
làm thêm giờ
quá mức và
bắt buộc làm tăng ca,
họ bị từ chối quyền
an sinh xã hội
chủ nghĩa và
không đuợc cung cấp
hợp đồng lao động tư bản tự
do, cũng như họ phải gánh chịu các
nguy cơ sức khỏe
nghiêm trọng.
Trong những năm 1950, tàu cộng đã xài một
hệ thống đăng ký gia đình (hộ khẩu) để kiểm xoát
miến ăn và để phân định cư dân đô thị hay cư dân
nông thôn. Hệ thống này đã tạo ra sự xuất hiện một
cấu trúc phân cực cư dân và kinh tế, tiếp tục tồn
tại giữa nông thôn và đô thị ở Trung Quốc. Hệ thống
đăng ký gia đình này được tàu cộng thắt chặt và sự
di chuyển của nguời dân bị quy định và kiểm xóat
trong nhiều năm. Tuy nhiên, sau khi tàu cộng mở cửa kinh
tế và thực hiện cái gọi là cải cách, thì hàng trăm
triệu nông dân di chuyển đến các thành phố để tìm
việc làm.
Trước khi mở
cửa kinh tế vào
năm 1978, tàu
cộng đã
dùng chế độ hộ khẩu đê kiểm
soát nghiêm
ngặt về việc di chuyển
của người
dân giữa các
vùng nông thôn và
đô thị; chúng
cố tình ngăn chặn họ di cư
đến các thành phố.
Các sự kiềm xóat
này là một phần của
hệ thống cho phép ăn ở
(hộ khẩu)
trong đó các phúc lợi
như trợ
cấp hưu trí, nhà ở, y
tế và giáo
dục của xã hội chủ nghĩa đã
được gắn
liền với vị
trí nơi sinh. Từ lúc
tàu cộng chuyển
sang nền kinh tế
thị trường,
lao động nông thôn
giá rẻ đã
giúp thúc đẩy
kinh tế tay sai tư bản của chúng
tăng trưởng
nên sự hạn chế
về di chuyển
của tàu cộng
đã giảm, tuy
nhiên những
hạn chế về
chế độ hộ khẩu vẫn
còn tại chỗ,
cho nên người di cư lao động trở thành
kẻ bị ruồng bỏ
và không có quyền
truy cập vào
bất kỳ lợi ích
nào của nhà nước,
hoặc là sự bảo vệ
, mặc
dù luật pháp
Trung Quốc tuyên truyền "quyền
bình đẳng" cho tất cả.
Cũng vì cố gắng để
thoát khỏi đói
nghèo cùng cực, lao
động di cư từ nông
thôn thấy mình
bị mắc kẹt trong
điều kiện làm việc
vô cùng khủng khiếp.
Hầu hết các
công nhân phụ
nữ có mức
lương rất
thấp -
mức lương trung bình
hàng tháng bao
gồm cả làm
thêm giờ là 1,690
NDT (£ 150)
Công nhân di cư
chịu đựng
ngày làm việc
dài, làm
việc bảy ngày
một tuần, làm việc rất nhiều mà
không có hợp
đồng lao động và
bị phân biệt đối xử
liên tục..
Điều kiện sống
của họ rất nghèo,
như là sáu
bẩy người chia
sẻ một ký
túc xá chật
hẹp. Phụ nữ
lao động di cư,
là nhân lực chủ yếu
làm việc trong
các nhà máy,
hiếm khi được
nghỉ thai sản,
không có cơ
sở chăm sóc
trẻ và
vì tuần làm
việc hơn 70
giờ nên nhiều
người buộc phải gửi
con về sống
với gia đình ở
nông thôn.
Công nhân Trung quốc không có
quyền tự do lập hội
để hình thành
tổ chức công đoàn,
và các tổ chức
lao động phi
chính phủ bị
theo dõi chặt chẽ
bởi Chính phủ tàu cộng kẻ
thi hành các vụ
đàn áp các cuộc nổi dậy chống
đối thường xuyên của công nhân.
Các tập đoàn
tư bản nuớc ngòai và
các chủ sở hữu
nhà máy sản xuất
tư bản đỏ
trong nuớc đã tận dụng lợi thế
của “văn
hóa chống
công đoàn” này,
của sự thiếu
nhận thức về quyền lợi lao động
của dân tàu và
sự không muốn
can thiệp của chính phủ tàu cộng
để bóc lột và chà đạp
quyền làm
người của lao động di cư'.
Ngoài ra, mức
độ bệnh họan
và thương tích do nghề nghiệp ở
Trung quốc là ở mức cao đáng báo
động. Riêng
năm 2009, khoảng
một triệu công nhân
bị thương tại
nơi làm việc và
khoảng 20.000
công nhân bị
bệnh do
nghề nghiệp của họ gây ra.
Ví dụ như một trong những
tai hại lớn
nhất cho sức
khỏe của công
nhân dệt may là
khâu phun cát, một
kỹ thuật được
sử dụng để
sửa sắc denim
để vải
có một cái nhìn
sờn củ. Máy
bắn cát phun
ra silica, hạt
bụi cát cực nhỏ, và gây
thiệt hại nặng
nề đường hô
hấp của người
lao động chạy máy này và gây
bệnh bụi phổi silicosis,
một căn bệnh
nghiêm trọng,
nếu không
được điều trị, cuối
cùng dẫn đến tử
vong. Mặc dù
khâu bắn cát
đã bị cấm
tại EC vào
năm 1966, nó
vẫn tiếp tục được
thực hành ở
Trung Quốc bất
chấp những mối
nguy hiểm sức
khỏe nghiêm trọng nó
gây ra. Các tập đòan công
ty đã có thể
tránh trách
nhiệm đối với bệnh
nghề nghiệp như
bụi phổi silica
bằng cách khai thác
lỗ hổng pháp lý của tàu cộng.
Hơn nữa, công
đoàn nhà nước
chính thức đã
không có hành động
thay mặt cho
người lao động
bị thuơng tật
và các công
ty hiếm khi
bắt buộc phải
bồi thường.
Các vụ tự tử gần đây ở hãng Foxconn
làm chủ bởi người Đài Loan ở Hon Hai đã được các
phương tiện truyền thông loan tải chưa từng có, với
nhiều ý kiến tuyên bố rằng Foxconn là một ví dụ tồi
tệ nhất của bóc lột. Trong bối cảnh này, ý kiến
của một học giã Bắc Kinh Chu Kế Sinh là đặc
biệt đáng lưu ý. Chu đã nói chuyện dài về các vấn
đề, chẳng hạn như về xí nghiệp bóc lột Trung Quốc
, khai thác lao động trẻ em và điều kiện làm việc kinh
khiếp thậm chí không phù hợp cho súc vật.
Nếu phân
xưỡng Hon Hai tại
Trung Quốc là
xí nghiệp bóc lột,
thì bản thân
Trung Quốc, cái gọi là "nhà
máy gia công của thế giới",
là một ổ bóc
lột không lồ lớn
hơn Hon Hai
nhiều đến nổi tội ác ở Hon Hai
sẻ không bao giờ sánh bằng. Các
phóng viên bí
mật từ
nhật báo miền nam đô thị,
một tờ báo Trung Quốc
cải cách, đã
dành thời gian 28 ngày ở
một phân xuỡng
của Foxconn. Câu
cuối cùng của
bài kết luận
của họ nói rằng
câu chuyện cùng cực của công nhân
Foxconn không
chỉ đại diện cho các
bí ẩn bên trong của
một nhà máy
nhưng đúng
hơn, nó đại diện cho số
phận của tòan thể thế
hệ công nhân
Trung Quốc. Hầu
hết các công
nhân Foxconn
là nông
dân. Họ là
một thế hệ
độc đáo của
người lao động trong
đó họ thể
hiện một số
"đặc sắc Trung Quốc" không
giống như bất
kỳ người lao
động nào khác đuợc nhìn
thấy trong lịch
sử của công
nghiệp hóa.
Những người lao động nông dân di dân có căn cuớc đôi.
Hộ khẩu đăng ký mà họ không thể thay đổi đuợc là
trong một khu vực nông thôn, nhưng họ cũng là người lao
động ở thành thị, họ không thể đạt được quyền
cư trú ở những nơi họ làm việc, mặc dù trong một số
trường hợp, họ làm việc và ở nơi đó hơn một thập
kỷ. Trên phuơng diện công việc làm, an sinh xã hội, bảo
hiểm y tế và giáo dục con cái của họ, những người
này phải đối mặt với sự kỳ thị có hệ thống và
họ chỉ là công dân hạng hai. Hơn nữa, Đảng Cộng sản
Trung Quốc thực thi kiểm soát chặt chẽ việc thành lập
các công đoàn lao động và đàn áp người lao động để
phục vụ tư bản ngọai bang, nên nguời nông dân trở
thành đối tuợng khai thác bóc lột cực kỳ dã man của
tư bản.
Một học
giã Bắc Kinh khác,
ông Trần Viên Mạo,
đã nói rằng
sự tích lũy
tiền vốn tư bản man rợ của
hệ thống xã
hội chủ nghĩa kỳ quái của tàu
cộng đã mang
lại đau
khổ nhiều hơn cho người lao động
so với bất kỳ
hệ thống tư
bản chủ nghĩa nào
có thể làm. Một học giã Hồng
Kông ông
Phan Vi đã nói rằng
các điều kiện
hiện nay nguời
nông dân lao động Trung quốc phải
đối mặt thậm
chí còn tồi
tệ hơn so với
những người công
nhân phuơng tây đã
phải chịu đựng trong
thế kỷ 19 khi
Karl Marx xây
dựng ý tưởng
của ông ta về
lao động và bóc
lột.
Ông Phan đã
nói rằng từ
năm 2000, những
cuộc đình công đã
ở Trung quốc trở thành gần như
phổ biến như trong
các nhà máy
của các
doanh nghiệp ở
đồng bằng sông Châu
Giang nơi mà
hàng ngàn công nhân
đã tham gia vào
các cuộc đình công này.
Ông cũng quan
sát thấy rằng các
cơ quan truyền thông
không loan tải
tình trạng bất ổn
lao động bởi
vì họ cho rằng các cuộc
đình công chỉ
đơn giản là quá
phổ biến.
Mặc dù vậy, các
vụ tự tử ở Hon Hai đã
được thông
báo rộng rãi bởi
các phương
tiện truyền thông định huớng và
đã dẫn đến
đủ loại
thông tin lá cải ở Trung Quốc với mục đích thuơng mãi.
Chúng ta không cần phải
thưởng thức những đồn đãi phản
thông tin như vậy, chúng
ta hãy nhìn vào
các vấn đề
thực tế phải
đối mặt của nông
dân lao động
Trung Quốc. Với
hoàn cảnh đau thuơng ảm đạm của
nông dân lao động,
câu hỏi đầu tiên
là liệu họ có
nên được cho phép
quyền cư
trú tại các
thành phố lớn
nơi mà họ đổ
xô cho công việc?
Điều này đã
được đặt thành vấn đề vào
năm 1993, nhưng
đã bị trì hoãn
bởi chính
phủ Trung Quốc trong
năm 1994. Đã
có nhiều
cuộc nói chuyện
về việc thay đổi
hệ thống này
trong năm 2008.
Nông dân lao động
từ nguyên thủy chủ nghĩa xã hội
đã không
đuợc phép ở lại
trong thành
phố trong thời
gian dài và vì
thế họ chỉ
có thể đạt được thẻ
cư trú tạm
thời mà thôi.
Trong năm 2008, hệ
thống thẻ tạm
trú này
đã được thay đổi
bằng một hệ thống
thẻ cư
trú vĩnh viễn. Tuy
nhiên, hệ thống cư trú vĩnh viển
này vẫn tiếp tục
rất èo uột bởi
nhiều vấn nạn vì nó chỉ là giả
tạo mà thôi. Ví
dụ, luật đòi hỏi rằng người
lao động di dân phải ở
tỉnh Thẫm Quyến hơn
10 năm trước
khi họ có thể
xin cư trú thuờng trực. Một bằng
chứng nửa là việc Thượng
Hải thông qua
một chính sách
di cư lao động
có tay nghề cao,
luật này tương tự như
các nước phát triển
sử dụng để
thu hút lao động
có tay nghề cao
từ các nước
đang phát triển.
Điều này có nghĩa
rằng những người
muốn đạt được
cư trú ở
Thượng Hải phải
có kỹ năng
nhất định. Tuy
nhiên, chỉ có
khoảng 3.000
người trong số
hơn 5 triệu
người sống ở
Thượng Hải không
có đăng ký hộ
gia đình là những
người thực sự có
thể đạt được cư
trú thuờng
trực dựa trên
quy định này.
Thật đáng ngạc nhiên,
đó là sự khó khăn đối với nguời
nông dân Trung Quốc cho họ để trở
thành công dân của
Thượng Hải hơn
là cho họ
đạt được một
thẻ xanh của
Hoa Kỳ hoặc đăng ký
gia đình ở
Đài Loan, trong
khi những người
nắm giữ thẻ
cư trú ở Thuợng Hải
có quyền rất
ít so với
những người giữ
thẻ xanh của
Mỹ. Các quy
tắc quá
nghiêm ngặt áp
đặt trên nông
dân lao động
bởi hệ thống đăng
ký hộ khẩu của
Trung Quốc đã tước
đoạt những
nhân quyền cơ
bản của họ và
đã làm gia tăng
tất cả các loại
tình huống bất thường.
Tỉnh Thâm Quyến ban
đầu có dân
số chỉ khỏang
310,000 người,
tuy nhiên trong
những năm 1980, dân số tăng
từ 300,000 đến 400,000
mỗi năm, tiếp
theo là tốc độ tăng trưởng
dân số chậm lại từ
70,000 đến 80,000
mỗi năm
trong những năm 1990.
Bây giờ tỉnh Thâm Quyến có dân số
hơn 14 triệu,
tuy nhiên chỉ có 2 triệu
người có đăng
ký hộ gia đình
hợp pháp.
Trong đám "dân
số nổi" của
10 triệu người
ở Thâm Quyến,
hơn 7 triệu
nguời có thẻ
tạm trú, hơn
1 triệu sống
trong ký túc xá
nhà máy và
hơn 2 triệu là
thành viên của "dân
màu xám"
không có chổ
ở và công ăn việc làm
thích hợp.
Ông Phan nói
rằng cái trò thành
phố khai thác
lao động "dân
lềnh bềnh" nông thôn này chỉ
để cuối cùng gửi họ
trở lại vùng
nông thôn khi
các dự án
muớn tạm được hoàn thành.
Vấn đề tồi tệ là, hơn 90
phần trăm của
thế hệ mới
nông dân lao động Trung Quốc, tức
là vào khoảng 100 triệu nguời,
đã bị
mất các kỹ
năng cần thiết
để làm công
việc đồng áng, và
lợi tức thu nhập của
họ là gần
như con số không để
họ có thể sống
ở các thành phố như
đắt đỏ như Thâm Quyến.
Khi những
người lao động bị
mất cả hai
kỹ năng cần thiết
cho nông nghiệp
ở nông thôn và
công nghiệp ở các thành phố,
họ trở thành những kẻ bị xã hội
ruồng bỏ và
điều hoàn
toàn không có gì
ngạc nhiên là khi một
số của họ chỉ còn cách tự
tử.
Cơ cấu kinh tế phân
cực tồn tại giữa khu
vực nông thôn và
đô thị Trung
Quốc đã tạo ra
huyền thoại
kinh tế mà Thâm Quyến
đã trở thành.
Nó nâng cấp
cái "mô
hình Trung Quốc" mà một số
học giả tư
bản chủ nghĩa từ Đài Loan và
vòng quanh thế giới
nghiêng mình
khen ngợi.
Những người như vậy
quãng bá rằng
việc hợp “thời trang kinh tế”
ngày nay là thảo luận làm thế nào để cơ cấu
“Đồng thuận
Bắc Kinh” này
sẽ thay thế
cơ cấu “Đồng thuận Hoa Thịnh
Đốn” như
một mô hình
phát triển kinh tế tòan cầu.
Người ta không thể
không tự hỏi rằng
những học giả
đô la này có cảm thấy bất kỳ
sự cảm thông
nào cho trên
200 triệu nông
dân lao động
ở Trung Quốc đang
phải chịu một
hoàn cảnh nô
lệ chưa từng có trong
lịch sử công
nghiệp hóa. Một
lưu ý tương
tự , trên quan điểm quyền lợi và
tội ác, cho những người
chỉ trích công
nhân Foxconn
rằng họ nên
dành nhiều thời gian
mà nhìn vào
bản chất thật sự
của mô hình phát triển kinh tế
Trung Quốc .