Sunday, February 25, 2018

ÂM MƯU THỐNG TRỊ THẾ GIỚI CỦA TÀU CỘNG


Thế giới bị Tàu cộng đánh lừa vì nghĩ rằng trong một số năm nhất định, kỹ nghệ Trung Quốc sẽ bắt kịp Mỹ. Và một lừa bịp khác có vẻ như ngược lại đó là: "Tàu cộng không bao giờ có thể đánh bại Hoa Kỳ về quân sự". Sự thật là cả hai đều không đúng. Kỹ nghệ Trung Quốc không bao giờ có thể bắt kịp Hoa Kỳ bất chấp bao lâu, thậm chí hàng tỷ năm và lý do thì rất là đơn giản: Trung Quốc không có công nghiệp hóa, kinh tế Trung Quốc là tư bản hóa từ chủ nghĩa cộng sản nghèo nàn và không một quốc gia nào có thể phát triển thật sự bằng tư bản hóa vì nó không có kỹ nghệ thật. Ý tưởng Trung Quốc không thể bắt kịp Hoa Kỳ giống như ý tưởng một thầy pháp không thể bắt kịp một nhà khoa học, cho dù bao lâu vì thầy pháp không có khoa học thật.

Trong khi câu trả lời cho sự lừa bịp thứ nhất là "không, công nghiệp Trung Quốc không thể bắt kịp Hoa Kỳ", câu trả lời cho sự lừa bịp thứ hai là ngược lại: "Vâng, Trung Quốc có thể đánh bại hải quân Hoa Kỳ ". Tại sao câu trả lời sau mâu thuẫn với câu trả lời trước? Lý do sẽ được giải thích trong bài viết này.

Tàu cộng mắc chứng bệnh tự kỷ, do đó chúng rất nguy hiểm. Mục đích của Tàu cộng không nhằm bảo vệ quê hương của chúng và bảo vệ tuyến đường thương mại như chúng tuyên bố, mục đích của chúng là bá chủ Á châu và thống trị thế giới. Mục tiêu của chúng là đuổi Hoa Kỳ ra khỏi Thái Bình Dương sau đó cướp các lãnh thổ và các nguồn tài nguyên trong khu vực. Có 3 giai đoạn cho mục tiêu này như sẽ được giải thích sau.

Tàu cộng sử dụng chủ nghĩa tư bản Mác xít để kiếm tiền và sử dụng tiền để chế tạo vũ khí bằng công nghệ vũ khí đánh cắp từ Mỹ. Cuối cùng chúng phải thống trị thế giới để duy trì quyền lực bất hợp pháp của chúng để cai trị Trung Quốc mãi mãi. Chủ nghĩa tư bản Mác-xít không thể làm cho xã hội Trung Quốc phát triển một cách thanh bình vì nó không thể tiêu diệt được các nền dân chủ và làm cho thế giới phải phục tùng bằng tiền; do đó, Tàu cộng phải chiếm thế giới bằng vũ lực. Các nước phương Tây càng nhượng bộ Tàu cộng để đạt được hòa bình, càng khuyến khích chúng đi vào chiến tranh. Vì Trung Quốc có gấp 5 lần dân số lớn hơn Hoa Kỳ, trong một cuộc chiến toàn diện với Mỹ, chúng có khả năng áp đảo Mỹ.

Bằng chủ nghĩa tư bản Mác xít và sau đó là quân sự, Tàu cộng sử dụng Trung Hoa để chiếm thế giới, bắt đầu với sự thống trị Thái Bình Dương. Tại sao lại là Thái Bình Dương? Bởi vì Hoa Kỳ là sức mạnh quân sự đáng gờm duy nhất có thể ngăn chặn chúng, và Thái Bình Dương là nơi mà Hoa Kỳ và các đồng minh đáng gờm của Hoa Kỳ có mặt quân sự kể từ Thế chiến thứ hai. Vì vậy điều quan trọng đầu tiên là Tàu cộng phải đẩy Hoa Kỳ ra khỏi khu vực Thái Bình Dương. Xâm lược là bản chất của Tàu cộng và Hoa Kỳ luôn là kẻ thù hàng đầu của chúng. Mục tiêu tối thượng của chúng là tiêu diệt Hoa Kỳ vì chỉ có Mỹ là nước có khả năng và ý định ngăn chặn chúng. Tàu cộng tẩy não người dân Trung Quốc rằng Hoa Kỳ là một đế quốc xừng xỏ, rằng dân chủ là đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Tàu cộng thần thánh hóa chủ nghĩa xã hội và sử dụng nó như một chứng từ rằng chúng là "những kẻ tốt". Sự thật là không có cái gì là chủ nghĩa tư bản và không có cuộc chiến tranh chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa xã hội, mà đúng hơn là có chiến tranh giữa bọn côn đồ Tàu cộng điên cuồng chống lại dân chủ tự do và các quyền quốc gia lành mạnh . Đây không phải là cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ nhưng là cuộc chiến tranh giữa bọn côn đồ Tàu cộng chống lại thế giới tự do (như trong cuộc chiến Triều Tiên).

Sau khi Tàu cộng thành công trong việc xây dựng một ngôi nhà thổ kinh tế toàn cầu, thì chúng có đủ tiền để trang bị cho mình vủ khí tận răng, và chúng đã làm việc này hơn 3 thập kỷ nay. Chúng tin rằng nếu chủ nghĩa tư bản Mác-xít không thể diệt được Hoa Kỳ, ít nhất nó làm cho Mỹ yếu đi và cây súng sẽ dứt điểm Mỹ. Nếu súng không thể giết chết Hoa Kỳ, ít nhất nó có thể làm Hoa Kỳ sợ hãi và cút ra khỏi khu vực.

Tàu cộng đã xử dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan để kích động người dân Trung Quốc, bằng cách khai quật cái gọi là "thế kỷ của sự nhục nhã", thời gian mà người thực dân phương Tây và người phát xít phương đông (Nhật Bản) đã phạm tội ác chống lại người Trung Quốc trước và trong thế chiến thứ 2. Bị kích thích bởi cái ác cảm cũ này, Người dân Trung Quốc đã trở thành những người điên cuồng mù quáng với hận thù, phục hận, căm giận vô lý, sẵn sàng phục vụ cuộc chinh phục thế giới của Tàu cộng.

Tuyên bố bảo vệ các chuyến hàng thương mại của chúng đến và đi từ Trung Quốc, đặc biệt tại một số nơi như eo đảo Malaca; và bắt chước một phiên bản của thuyết Monroe Mỹ cho Trung Quốc, Tàu cộng đã thành lập các pháo đài ở Thái Bình Dương (các bức tường lớn của Thái Bình Dương) theo ba giai đoạn bao gồm 3 vùng của Thái Bình Dương. Ba giai đoạn thống trị Thái Bình Dương này kéo dài 30 năm - từ năm 2020 đến năm 2050.

Giai đoạn 1: Chuỗi đảo đầu tiên.
Từ các hòn đảo Kurl phía bắc Nhật Bản đến các hòn đảo Ryukyu phía nam Nhật Bản tới Đài Loan. Và từ Nam Đài Loan dọc theo các hòn đảo của Philippine đến Brunei sau đó lượn lên như một lưởi bò dọc theo bờ biển Việt Nam tới Hải Nam.

Giai đoạn 2: Chuỗi đảo thứ hai.
Từ bắc Nhật dọc theo đông bắc Nhật Bản đến đảo Iwo Jima sau đó đến đảo Guam và đảo Mariana. Từ đảo Mariana đến Palau và dừng lại ở Indonesia gần New Guinea.

Giai đoạn 3: Giai đoạn thứ ba bao gồm việc mở rộng hải quân Tàu cộng ngoài chuổi đảo thứ hai đến hòn đảo Hawaii. Và sự thống trị bằng vũ lực nếu cần thiết tất cả các quốc gia bên trong.

Nếu tất cả mọi thứ đi theo kế hoạch, Tàu cộng sẽ tấn công hải quân Nhật Bản, Philippine và Mỹ, và xâm chiếm những hòn đảo tạo ra chuỗi đầu tiên để hoàn thành giai đoạn 1 cho mục tiêu của chúng vào năm 2020. Hai giai đoạn khác sẽ được tiến hành sau đó cho đến khi hoàn thành vào năm 2050. Làm thế nào mà Tàu cộng có khả năng đối mặt với hải quân Hoa Kỳ? Bởi vì chúng biết rằng chúng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến tranh hải quân thông thường với Mỹ và Mỹ sẽ tránh chiến tranh hạt nhân. Điều gì khiến chúng tự tin như vậy? Đây là chiến lược của chúng để đánh bại hải quân Hoa Kỳ: chiến lược khu vực-từ chối-chống xâm nhập(AAAD) và phối hợp với chiến lược chiến tranh bất đối xứng.

Chiến lược AAAD nhằm mục đích đuổi các lực lượng hải quân Hoa Kỳ ra khỏi các quần đảo thứ nhất và thứ hai của Thái Bình Dương. Chiến tranh bất đối xứng là một chiến lược mới được thiết kế để chống lại quân đội có công nghệ tiên tiến và vũ khí đắt tiền (như hải quân Hoa Kỳ), sử dụng vũ khí rẻ tiền, do đó tránh phải đối mặt với lực lượng Hoa Kỳ trên cơ sở vũ khí đối vủ khí.

Tàu cộng sử dụng hỏa tiển, mìn và tàu ngầm cùng với vũ khí không gian và không gian mạng để thực hiện chiến lược AAAD kết hợp với chiến lược Không đối xứng. Ý chính của AAAD là mở rộng phạm vi đạn đạo từ đất liền Trung Quốc ra biển Thái Bình Dương để gây nguy hiểm cho các hàng không mẩu hạm và các hạm đội Hoa Kỳ, từ đó phủ nhận việc Hoa Kỳ xâm nhập vùng biển này. Bằng cách sử dụng "pháo thuyền", không tốn kém và rất thông thường nhưng với số lượng lớn, Tàu cộng đầu tư vào các hỏa tiển đạn đạo và hỏa tiển hành trình thông thường, vũ khí đại dương chống hàng không mẩu hạm trên đất liền, những "pháo thuyền" tầm ngắn với hỏa tiển chống tàu sân bay, có thể được gửi đi từ bờ biển với số lượng lớn để đánh bại hạm đội Hoa Kỳ.

Từ đất liền, Tàu cộng sẽ xâm chiếm quần đảo đầu tiên và thành lập các pháo đài trên đó để mở rộng AAAD về hướng đông. Nếu giai đoạn đầu tiên thành công, chuỗi đảo đầu tiên được sử dụng để mở rộng phạm vi bắn AAAD bao gồm đến chuỗi đảo thứ hai. hỏa tiển đạn đạo từ căn cứ đất đai rất khó để đối phó, nghĩa là để bao vây, phát hiện và ngăn chặn chúng tấn công các hạm đội, đặc biệt là các hàng không mẩu hạm. Trong vòng 2000 km, các hỏa tiển đạn đạo chống hàng không mẩu hạm rất hiệu quả.

Tuy nhiên, mục tiêu thực sự của chiến lược vũ khí của Tàu cộng là nhằm đe doạ các hàng không mẩu hạm Hoa Kỳ và nâng cao nhận thức về chi phí để đối phó khủng khiếp đến mức Hoa Kỳ không thể can thiệp, như vậy là chúng "giành chiến thắng mà không cần chiến đấu". Chúng ngăn cản Hoa Kỳ can thiệp hoặc ít nhất là trì hoãn sự can thiệp của Hoa Kỳ đủ thời gian để chúng lấn chiếm chuỗi đảo và đưa Mỹ và thế giới vào sự chấp nhận (phủ phục).

Đây là danh sách vũ khí của Tàu cộng, ăn cắp của Mỹ và trang bị để đánh Mỹ.

hỏa tiển

Trung Quốc ngày nay có số lượng hỏa tiển có khả năng mang đầu đạn hạt nhân lớn nhất thế giới. hỏa tiển đạn đạo xuyên lục địa Liên lục địa (ICBM) DS31, DS31A. ICBM DS41 mới với phạm vi rộng đe dọa tất cả các nước trong khu vực. Những hỏa tiển này được sử dụng với số lượng lớn để tiêu diệt các phi trường đối phương để máy bay không thể cất cánh, do đó giúp không quân của chúng khống chế không gian.

Các loại hỏa tiển đạn đạo cực nhẹ DF21D với hỏa tiển đạn đạo chống tàu hăm dọa nguy hiểm cho hàng không mẩu hạm Hoa Kỳ. Các hỏa tiển siêu âm đi tốc độ gấp 10 lần tốc độ âm thanh và làm cho hỏa tiển phòng thủ chống lại đạn đạo không còn hiệu quả.

Mìn biển

Trung Quốc ngày nay có số lượng mìn biển với cầu chì thông minh (mìn biển thông minh) lớn nhất thế giới. Mìn biển này có thể phát hiện loại tàu để bắn ngư lôi của chúng vào (mìn tự hành). Thêm nửa là hạm vụ quét mìn biển rất khó làm. Bằng cách đặt các mìn biển ở đại dương, Tàu cộng có thể cản trở hải quân Hoa Kỳ không thể bảo vệ các đồng minh một cách rẻ tiền và hiệu quả.

Tàu ngầm

Tàu cộng có tàu ngầm rất yên lặng với hỏa tiển hành trình chống hàng không mẩu hạm và ngư lôi tốc độ cao, cả hai loại chạy bằng điện diesel và điện hạt nhân. Đến năm 2020, Tàu cộng có hơn 80 tàu ngầm thông thường, rất hiện đại, yên tĩnh và nguy hiểm cho các tàu chiến của mỹ. Tàu ngầm hạt nhân của Tàu cộng có hỏa tiển đạn đạo (NBMS) có thể tấn công Seattle và Los Angeles bằng vủ khí hạt nhân và Tàu cộng tiếp tục tăng cường NBMS trong khi Hoa Kỳ giảm kho vũ khí NBMS xuống khoảng 40 vào năm 2020.

Chiến tranh không gian mạng (Chiến tranh thông tin)

Trong 3 thập kỷ nay, Tàu cộng đã xách động một cuộc chiến tranh không gian mạng chống lại Hoa Kỳ với 4 hoạt động chính
1) Phá và Trộm bí mật quân sự
2) phá và Trộm tài sản trí tuệ
3) Tiêu hủy cơ sở hạ tầng quan trọng
4) Gây rối thị trường tài chính Hoa Kỳ

Tàu cộng tổ chức một đội ngủ nhân viên dân sự và quân sự khổng lồ để điều hành một cuộc tấn công không gian mạng chống lại chính phủ Hoa Kỳ và các khu vực tư nhân để làm gián đoạn, vô hiệu hóa và phá huỷ các hệ thống điều hành dân sự và quân sự của Hoa Kỳ. Ngoài ra, các cuộc tấn công không gian mạng không hạn chế của Tàu cộng còn ăn cắp thông tin từ tất cả các loại dịch vụ quân sự, công nghiệp và thương mại như ngân hàng, thẻ tín dụng, điện, kiểm soát không lưu, chứng khoán, bệnh viện, hệ thống xử lý nước vv. Hành động gián điệp mạng và trộm cắp các hệ thống vũ khí của Mỹ của Tàu cộng đã là một hành động chiến tranh chống lại Hoa Kỳ.

Tàu cộng ăn cắp tất cả các công nghệ vũ khí của Mỹ. Ví dụ, Tàu cộng đã đánh cắp công nghệ Aegis và sao chép nó để trang bị các tàu khu trục hỏa tiển dẫn đường tuần tra biển Nam Trung Quốc tức là biển đông VN. Công nghệ hỏa tiển đạn đạo liên lục địa đã bị đánh cắp từ Mỹ trong thời gian của chính quyền Clinton. Tàu cộng đã đánh cắp công nghệ máy bay chiến đấu F35 trong thời gian của chính quyền Bush. Vào thời điểm đó, Tàu cộng đã đánh cắp chiếc máy bay chiến đấu thế hệ mới thứ 5 (máy bay ném bom tàng hình) và sao chép chúng để chế tạo máy bay ném bom tàng hình của chúng (máy bay chiến đấu tàng hình J20). Tàu cộng đã đánh cắp công nghệ máy bay không người lái drone của Mỹ trong thời chính quyền Obama và làm giống hệt cho máy bay của chúng.

Bằng phương thức sản xuất hợp đồng và hợp đồng phụ, Tàu cộng đã có thể đánh cắp hầu hết tất cả các máy móc đánh nhau, chiến đấu và máy móc chiến tranh của Mỹ. Hệ thống chiến đấu Aegis, máy bay trực thăng Black Hawk, máy bay chiến đấu F / A 18, F22, máy bay chiến đấu F35, tàu chiến Litoral, hỏa tiển phòng không Patriot, trạm cao độ phòng thủ, phi cơ không người lái, V22 Osprey Tilt Rotor Aircraft vv ... hầu như tất cả và công nghệ tự vệ và tấn công đều đã bị đánh cắp.

Chiến tranh không gian

Tàu cộng cũng cố gắng kiểm soát và chiếm ưu thế không gian vì chúng biết rằng vệ tinh không gian quyết định kẻ chiến thắng trong một cuộc chiến tranh tối tân. Tàu cộng xây dựng 4 trung tâm vũ trụ ở Trung Quốc, tất cả đều do công nghệ vũ trụ bị chúng đánh cắp từ Mỹ. Tàu cộng đang cố gắng thiết lập một hệ thống vệ tinh laze quỹ đạo cao để thống trị các vệ tinh quỹ đạo thấp hơn của Mỹ. Tàu cộng phát triển vũ khí chống vệ tinh trong không gian với các công nghệ ăn đánh cắp từ Mỹ như hỏa tiển trực tiếp, Jammer điện tử, vủ khí Laser Dazzling, Hard Kill và Soft Kill Satellite Vệ tinh ... nhằm phá hủy vệ tinh Mỹ.

Trong vùng biển Thái Bình Dương, có ba điểm nóng có thể được sử dụng bởi Tàu cộng để gây chiến với Hoa Kỳ.

Bắc Triều Tiên

Bắc Hàn (BH) được Tàu cộng sử dụng như một con chó điên mà Tàu cộng có thể xả chuồng khi cần thiết. Tàu cộng không bao giờ muốn mất BH vào tay NH vì chúng không muốn một "con rối của Mỹ" chiếm toàn bộ bán đảo Triều Tiên, quá gần chúng. Nếu BH sụp đổ thì sẽ có xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc dành ảnh hưởng Hàn Quốc. BH là một quốc gia côn đồ, một con chó điên đã kích động đánh phá NH nhiều lần trong quá khứ. Một cuộc tấn công bằng vũ khí thông thường của BH đánh NH sẻ nhận được một sự phản ứng mãnh liệt của NH, và một cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân của BH đánh NH có nghĩa là BH sẽ bị xóa sổ trên bản đồ của trái đất bởi Mỹ. Kịch bản này sẻ thu hút Trung Quốc vào cuộc chiến tranh hạt nhân với Hoa Kỳ.

Tàu cộng đang chơi một trò chơi nước đôi với BH. Một mặt Tàu cộng giả vờ rằng chúng muốn ngừng tham vọng hạt nhân của BH, nhưng mặt khác, và đồng thời, cánh tay lông lá của Tàu cộng đã cung cấp cho BH nguyên liệu sản xuất vũ khí hạt nhân. Vào năm 2012, Tàu cộng bán 6 hỏa tiển di động mang tên KN-08 có tầm bắn 5.500 km và có khả năng mang đầu đạn hạt nhân với các thiết bị phóng ICBM được sản xuất tại Trung Quốc. Những dàn phóng này có thể tấn công cả Alaska và California.

Tàu cộng đang mua thời gian để nuôi lớn con chó điên của chúng. Mục đích là làm cho BH có vủ khí nguyên tử và có một nền kinh tế mạnh mẽ (không có nền kinh tế cộng sản nào là mạnh mẽ nhưng nền kinh tế Cộng sản BH được chăm sóc bởi tư bản đỏ Tàu cộng). BH sẽ không từ bỏ chương trình hạt nhân vì nó rất quan trọng cho chế độ độc tài sống sót, và bởi vì chúng nhận đầy đủ sự ủng hộ và chỉ huy của quan thầy Tàu cộng. Trên thực tế, Tàu cộng đã lên kế hoạch cuộc chiến tranh hạt nhân với Hoa Kỳ và chúng bắt đầu phát tán vũ khí hạt nhân cho bất cứ nước nào chống đối Hoa Kỳ.

Tàu cộng đã đánh cắp công nghệ hạt nhân của Mỹ từ cuối những năm 1980 khi mà Tàu cộng đã xâm nhập vào các phòng thí nghiệm vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và tiếp cận với các loại vũ khí đã được triển khai ở khu vực hạt nhân của Hoa Kỳ như đầu đạn W88 cho tàu ngầm Trident D5 phóng hỏa tiển đạn đạo. Vào những năm 1990, Tàu cộng đã đánh cắp hạt nhân bí mật từ Mỹ và chuyển sang Pakistan, cho một tay buôn bán vũ khí tên là A Q Khan, người sau đó đã truyền bí mật vủ khí nguyên tử ra khắp thế giới, đặc biệt là cho những nước ghét Mỹ như Iran và BH.

Tàu cộng Sử dụng Pakistan để phổ biến vũ khí hạt nhân cho Iran, Libya, Syria và BH. Mục đích là để làm Mỹ mất cân bằng và trong trường hợp một cuộc chiến tranh hạt nhân với Hoa Kỳ, Tàu cộng có các đồng minh vũ trang hạt nhân đủ mạnh để tiêu diệt Hoa Kỳ. BH và Iran đã cùng bắt tay trong tham vọng phát triền vủ khí hạt nhân với Tàu cộng đứng phía sau. Mục đích của TC là truyền bá công nghệ vủ khí hạt nhân chúng đánh cắp từ Mỹ tới tất cả các kẻ thù của nước Mỹ. Mục tiêu là tiêu diệt Mỹ trong một cuộc chiến tranh hạt nhân không thể tránh khỏi trong tương lai.

Và Hoa Kỳ đã không làm gì để ngăn chặn được bọn côn đồ nhất, đó là Tàu cộng.

Đài Loan

Nền dân chủ hưng thịnh của Đài Loan là một mối đe dọa chính trị đối với quy tắc du côn của Tàu cộng. Tàu cộng sợ rằng dân chủ từ Đài Loan sẽ lan sang lục địa Trung Hoa, và trong lục địa Trung Hoa người ta đã tự coi mình là một người Đài Loan hơn là một người Trung Quốc. Cái được gọi là kinh tế thị trường gắn bó với Đài Loan chỉ là một bình phong để "mua Đài Loan" bằng tiền. Và nếu thất bại, Tàu cộng sẽ xâm chiếm Đài Loan bằng bạo lực. Tàu cộng sử dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan để người Trung Hoa tin rằng Tàu cộng đang chiến đấu vì niềm tự hào quốc gia của họ chống lại những gì mà bộ máy tuyên truyền gọi là "thế kỷ của sự nhục nhã" và Đài Loan là mảnh đất cuối cùng của đất mẹ đã bị các kẻ thù của Trung Hoa cướp mất và nó phải được "đoàn tụ". Vì vậy, sau giai đoạn đầu của chương trình thống trị Thái Bình Dương, Đài Loan sẽ bị Tàu cộng cướp.

Liệu Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Đài Loan nếu Tàu cộng tấn công? Hoặc Hoa Kỳ sẽ mặc cả để đổi Đài Loan cho các lãnh thổ khác do Tàu cộng chiếm đoạt. Điều này cũng tương tự như sự nhượng bộ mà phương tây đã thực hiện với Đức quốc xã vào năm 1939 (chính sách trấn an) và kẻ xâm lăng cho rằng sự nhượng bộ là do đối phương hèn và yếu. Điều này khiến kẻ xâm lăng trở nên hung hăng hơn và kết quả là chiến tranh.

Độ tin cậy của Hoa Kỳ đối với đồng minh rất quan trọng và Hoa Kỳ có trách nhiệm đạo đức để bảo vệ Đài Loan. Hơn nữa, nếu Mỹ từ bỏ Đài Loan, điều này sẽ làm gia tăng sự phổ biến vũ khí hạt nhân ở châu Á (vì các nước cảm thấy cần phải tự lo tự vệ cho họ) và làm suy yếu các liên minh của Mỹ. Về mặt chiến lược, Đài Loan rất quan trọng đối với an ninh quốc gia của Mỹ và Nhật Bản. Bởi vì nếu Đài Loan bị xâm lược bởi Tàu cộng, thì sẻ tạo sự dễ dàng cho Tàu cộng đe dọa các nước khác ở Thái Bình Dương, đặc biệt là Nhật Bản.

Vì vậy, câu trả lời là có, nếu Đài Loan bị tấn công, Mỹ sẽ tung ra các trận hải chiến để bảo vệ Đài Loan, đó là Mỹ sẽ tấn công vùng lục địa Trung Quốc. Và để đối phó với sự can thiệp của Hoa Kỳ, Tàu cộng sẽ làm như sau:

Sử dụng tàu ngầm thông thường, chỉ một cơn mưa pháo với hỏa tiển hành trình có thể áp đảo hạm đội Hoa Kỳ và rất có thể sẽ phá hủy các hàng không mẩu hạm. Tàu cộng bổ sung 100 hỏa tiển đạn đạo mỗi năm để tấn công không quân phòng thủ ở Đài Loan. Hiện nay, Tàu cộng nhắm 2000 hỏa tiển vào Đài Loan. Chỉ trong một cơn mưa pháo, 800 hỏa tiển sẽ bay vào sân bay Đài Loan, cùng với căn cứ không quân Kadina của Mỹ ở Okinawa, khiến cho các chiến đấu cơ không thể cất cánh.

Tàu cộng sẽ đặt mìn để đóng cửa 2 cảng chính của Đài Loan. Vào mùa xuân năm 1996, Tàu cộng đã bắn hỏa tiển đạn đạo ngang qua Đài Loan để đe dọa người Đài Loan trong cuộc bầu cử dân chủ toàn quốc đầu tiên của họ. Hoa Kỳ đã phái 2 hạm đội (các toán hàng không mẩu hạm chiến đấu) vào khu vực và Tàu cộng đã ngưng hành động đe dọa này.

Nhật Bản

Tàu cộng liên tục tấn công lãnh thổ của Nhật Bản. chúng Khóa radar vào các tàu Nhật không vũ trang và hàng ngày chúng tấn công Nhật Bản bằng các phương tiện tuyên truyền do nhà nước kiểm soát. Tàu ngầm của chúng xâm nhập nước Nhật, hỏa tiển đạn đạo Tàu cộng nhắm vào tất cả các nước trong khu vực Thái Bình Dương, đặc biệt là Nhật Bản. Bộ máy tuyên truyền của Tàu cộng đã khai thác cái gọi là "thế kỷ của sự sỉ nhục quốc gia" do Nhật Bản gây ra trước đây để kích thích chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Trung Hoa nhằm khơi động hận thù và báo thù, phục vụ cho mục tiêu xâm lược của chúng.

Tàu cộng không phải là một chính quyền dân chủ được bầu, chúng không có quyền hợp pháp, chúng cảm thấy tâm lý bất an, vì vậy chúng sử dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, điên cuồng và phi lý để mặc áo khoác, mang mặt nạ của những người theo chủ nghĩa dân tộc quốc gia đánh lừa người dân Trung Quốc. Những cuộc biểu tình bạo động chống Nhật Bản của người dân Trung Quốc đòi lại các hòn đảo Senkaku / Diaoyo đã trở thành một phần của lịch sử chính trị Trung Quốc hiện đại.

Đáp lại, Nhật Bản đang xây dựng quân đội để chống lại mối đe doạ từ Trung Quốc. Người dân Nhật Bản trở nên thất vọng và tức giận Trung Quốc, một phản ứng tự nhiên đối lại sự hiếu chiến của Tàu cộng. Tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản nếu xảy ra sẽ là một cuộc chiến tranh hạt nhân và Mỹ sẽ bị lôi kéo vào để bảo vệ Nhật Bản. Các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc (quần đảo Ryukyu) là sự xâm lược không kém gì hơn là một sự đòi hỏi của một tên phát xít mới, đế quốc mới tại Thái Bình Dương.

Tại sao chuỗi đảo Ryukyu (chuỗi đá) là rất quan trọng? Có 2 lý do:
1) 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế cho phép sự tiếp cận với các nguồn tài nguyên biển và đáy biển.
2) các căn cứ chiến lược, quân sự cho sự xâm lược AAAD

Chuỗi đảo Ryukyu là lãnh thổ của Nhật Bản từ đầu thế kỷ 20 (có bằng chứng), trong khi Tàu cộng sử dụng các tài liệu triều đại của nhà Minh để tuyên bố chủ quyền lãnh thổ, điều này sẻ không được toà án quốc tế chấp nhận vì thế giới chỉ chấp chủ quyền kể từ năm 1945.

Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản vì hiệp định ký kết với Nhật Bản vào năm 1960. Nếu Tàu cộng xâm chiếm chuỗi đảo đảo Ryukyu, Hoa Kỳ sẽ làm như sau:
1) Sử dụng vũ khí thermalbarric để giết tất cả bọn xâm lược trên đảo
2) Phân ly chuổi đảo bằng phong tỏa
3) Chiến tranh hạt nhân toàn diện với Tàu cộng

Kết luận (tiếp theo)

CHỦ NGHĨA TƯ BẢN MARXIST


Sau khi giết hơn 40 triệu người Tàu bằng chết đói với chiến dịch "nhảy vọt vĩ đại", bọn đầu sỏ cộng sản Trung Quốc đã  tái tạo chủ nghĩa tư bản Mác xít để chúng có thể tiếp tục gây tội ác chống lại, không chỉ nhân dân Trung Hoa, mà còn cả thế giới. 

Trong một thời gian dài, người Trung Hoa đã bị tẩy não bởi hệ tư tưởng Mác-xít, bị khủng bố, tuyên truyền và hăm dọa, họ đã trở thành những con vật để bị khai thác bởi chủ nghĩa tư bản Mác xít. Trong một nền thương mại thế giới lành mạnh, lao động rẻ được cân bằng bởi quyền của người lao động. Nếu 10 đô la mỗi đơn vị sản xuất ở Mỹ có thể làm được với 5 đô la một đơn vị để sản xuất tại Thái Lan, ví dụ như vậy, công nhân ở Thái Lan kiếm được 5 đô la mỗi đơn vị làm việc, do đó họ có khả năng mua lại. Ở Trung Quốc, những người cộng sản Trung Quốc, thông đồng với những tay buôn lao động người Đài Loan, đã tổ chức các xí nghiệp máu cấp thế giới để sản xuất hợp đồng. Con vật không có quyền người, công nhân Trung Hoa chỉ được trả10 xu cho mỗi đơn vị sản xuất từ 5 đô la mà bọn trung gian thu được của các công ty nước ngoài, do đó, bọn cộng sản Trung Quốc và những quần thần của chúng trở nên giàu có một cách bẩn thỉu nhưng người dân Trung Hoa rất nghèo và họ không có sức mua xắm.

Hệ thống kinh tế tội ác này, còn được gọi là kinh tế công ty hoặc thương mại tự do, hoặc chủ nghĩa toàn cầu hóa, được các công ty tham lam và các chính trị gia tham nhũng yêu chuộng (những người yêu chủ nghĩa toàn cầu hóa thì được gọi là những người toàn cầu hoá) và họ cố gắng xuất cãng tất cả các nhà máy sản xuất qua Trung Quốc. Với một tỷ người nô lệ và một túi tiền không giới hạn, cái gọi là "made in china" đã làm hỏng kinh tế lành mạnh của cả thế giới và xoá tất cả các ngành công nghiệp trong nước, tạo ra thất nghiệp và nghèo đói ở mọi nơi. Trớ trêu thay, tội ác được trả công rất tốt, Trung Quốc được WTO, một công cụ của chủ nghĩa tư bản Mác xít, trao tặng chức "quốc gia thương mại được ưa chuộng nhất thế giới".

Bọn toàn cầu hóa cũng cố gắng tìm kiếm lao động rẻ hơn từ các nước thứ ba ung thối để cạnh tranh với cái động mãi dâm kinh tế Trung Quốc vĩ đại này. NAFTA của Bill Clinton và TPP của Obama là những ví dụ của cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu từ Mỹ. Kể từ khi xảy ra hệ thống toàn cầu tội ác này, bảy mươi ngàn nhà máy sản xuất của người Mỹ, bằng tiền của Mỹ, đã biến mất; thâm hụt thương mại lên đến 20 ngàn tỷ đô la; ít nhất 50 triệu người Mỹ mất việc làm trong một vụ "ăn cắp việc làm" lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Tham lam là bản chất con người của chúng ta, nhưng sử dụng tham lam để thúc đẩy tội ác và sử dụng tội ác để cai trị thế giới là hành động tà ác chỉ có thể do những tên cộng sản Trung Quốc điên cuồng gây ra, và được các bọn tư bản tham lam bản toàn cầu hỗ trợ và được khuất phục bởi các nhà mệnh danh chủ nghĩa xã hội cấp tiến. Bọn cộng sản Trung Quốc sử dụng chủ nghĩa tư bản Mác xít để làm giàu và làm lan rộng nghèo đói để các đại diện của chúng (bọn chủ nghĩa xã hội cấp tiến) có thể sử dụng đói nghèo để phổ biến chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Từ chủ nghĩa xã hội Mac xít đến chủ nghĩa tư bản Mác xít, bọn côn đồ Cộng sản Trung Quốc đang biến Trung Hoa thành kẻ thù nguy hiểm nhất thế giới chống lại dân chủ, và nhớ rằng, tội ác kinh tế không phải là tội ác duy nhất của bọn chúng.

Trong thực tế, cộng sản Tàu (CST) không phải là “cộng hòa” và "nhân dân" như họ nặc danh, CST là một tổ chức tội ác thuần túy. Chúng có thể mang nhiều mặt nạ, chúng có thể ngụy trang dưới nhiều hình thức và chúng có thể trở mặt tùy ý. Chúng có thể mang nhiều khuôn mặt chủ nghĩa như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa xã hội Mác-xit, chủ nghĩa tư bản Mác-xít ... nhưng thực sự chúng là những kẻ theo chủ nghĩa phát xít mới, đế quốc mới và thực dân mới, ba thứ nhập một. Trong thời chiến tranh lạnh, bọn CST đã lợi dụng chính sách Mỹ cần có sự thông đồng của chúng để đánh bại chủ nghĩa cộng sản (Xô viết), để tiếp tục tồn tại sau những tội ác tày trời. Sau khi chủ nghĩa xã hội Mác xít đã giết chết đói hơn 40 triệu người Tàu, CST đã tìm cách duy trì quyền lực cai trị bằng cách phản bội chủ nghĩa xã hội Mác xít , trơ trẻn trở mặt dựng đứng thây ma của chủ nghĩa tội ác cực đoan thù địch đó là chủ nghĩa tư bản Mác xít. CST đã tuyên truyền lường gạt dân Tàu rằng muốn chủ nghĩa cộng sản thành công, họ phải thông qua hệ thống tội ác đối nghịch đó là chủ nghĩa tư bản Mác xít và đặt ra thuật ngữ "nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" để lường gạt.

Chủ nghĩa tư bản Mác-xít là một hệ thống kinh tế của người giàu. Trong hệ thống tư bản Mác xít, các chính trị gia tham nhũng chỉ phục vụ cho người giàu. CST lan truyền chủ nghĩa tư bản Mác-xít nhằm phá huỷ nền dân chủ trên toàn thế giới và làm cho các quốc gia bị nhiễm chủ nghĩa tư bản Mác-xít cúi đầu trước sự thống trị của CST vì lợi nhuận.


Đây là định nghĩa của chủ nghĩa tư bản Mác xít do chính bọn cộng sản viết:

Chủ nghĩa tư bản  (Mác xít) là chế độ một bọn ít người bóc lột và thống trị đại đa số nhân dân. Song bọn ấy là bọn tư bản, chứ không phải là bọn phong kiến. Cách đây vài trǎm nǎm, các nước phương Tây bắt đầu có máy móc, có công nghệ và có chế độ tư bản. Dưới chế độ ấy, bọn tư bản chiếm các tư liệu sản xuất (như nhà máy, nguyên liệu…) làm của riêng. Nhưng tự họ không lao động, mà thuê công nhân sản xuất để bóc lột công nhân. Công nhân phải bán sức lao động mới có ǎn. Ngoài sức lao động, họ không có máy móc và nguyên liệu gì cả. Cho nên công nhân là giai cấp vô sản. Công nhân sản xuất các thứ của cải, song của cải ấy đều thành của cải của nhà tư bản. Bọn tư bản chỉ trả cho công nhân một số tiền công rất ít. Nhà tư bản thuê công nhân mục đích là cốt kiếm lãi. Công nhân vì không có tư liệu sản xuất, mà phải chịu bọn tư bản bóc lột. Vì vậy, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản là: 1- Máy móc là chủ chốt của tư liệu sản xuất. Dùng máy móc phải tập trung đông người. Do đó, để sản xuất, thì sức lao động hoá ra tập thể. 2- Nhà tư bản chiếm hết mọi tư liệu sản xuất, họ dùng chế độ tiền công để bóc lột công nhân. Về mặt sản xuất, so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ to. Phong kiến, chỉ nhờ sức người và sức súc vật mà sản xuất. Tư bản thì dùng máy móc mà sản xuất. Dùng máy móc tái sản xuất gấp 10, gấp 100, mà người ta lại ít khó nhọc hơn. Tư bản sản xuất rất nhiều, song không phải để cho mọi người được hưởng. Vì các tư liệu sản xuất đã bị nhà tư bản chiếm làm của riêng. Đó là một tình trạng rất không hợp lý. Tình trạng đó sinh ra nhiều khó khǎn mà nhà tư bản không thể giải quyết: nhà tư bản sản xuất là cốt để bán. Thí dụ, họ sản xuất hàng vạn đôi giầy, không phải để họ dùng, mà để bán. Trong xã hội tư bản, đại đa số nhân dân đã thành nghèo khó, thì bán cho ai ? Vì vậy, mà thường có khủng hoảng kinh tế, vì sản xuất quá nhiều. Lao động đã tập thể, thì các tư liệu sản xuất và những thứ sản xuất ra, phải là của chung mới đúng. Nhà tư bản chẳng những bóc lột công nhân trong nước họ, mà còn xâm lược và bóc lột các nước khác. Do đó, chủ nghĩa tư bản trở nên chủ nghĩa đế quốc” (trích sách giáo khoa của việt cộng).
Và đây là tiến trình lịch sử của chủ nghĩa tư bản đỏ (tư bản Mác xít).

Sau năm 1945 Mỹ thành lập một liên hiệp quốc lành mạnh dựa trên tự do và dân chủ toàn cầu. Bởi gần như lúc đó tất cả các hệ thống tội ác toàn cầu đã bị phá hủy, ngoại trừ một hệ thống chủ nghĩa tội ác mới: đó là chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1972, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã thăm các tĩnh Trung Hoa và ký một thông cáo tại Thượng Hải như là một phần của chương trình bắt tay với Tàu cộng.

Vào năm 1973 liên hiệp quốc đá Trung Hoa Cộng Hòa ROC ra và thay thế ROC bằng CST.

Năm 1979, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc và chấm dứt mối quan hệ bình thường với Đài Loan. Tuy nhiên, quốc hội Hoa Kỳ đã ký Đạo luật Quan hệ Đài Loan để thiết lập lại quan hệ quốc phòng và thương mại với Đài Loan.

Năm 1989, dưới thời Tổng thống George Bush, quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc đóng băng vì vụ thảm sát Thiên An Môn. Nhưng đến năm 2000 thì TT Bill Clinton ký Đạo luật quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc năm 2000 mở đường tái lập mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc toàn diện và cho chúng gia nhập WTO.

Năm 2001, Trung Quốc gia nhập WTO. Ngay lập tức Trung Quốc tràn ngập Mỹ với hàng xuất khẩu có sự hổ trợ bất hợp pháp của chính phủ độc tài đãng trị CST, đã làm 57 nghìn nhà máy Mỹ biến mất và hơn 25 triệu người Mỹ bị mất việc làm. CST đã làm tổn thương cả người dân Trung Quốc và Hoa Kỳ, và kinh tế toàn cầu, Liên Hiệp Quốc đã bị xáo trộn khi họ đuổi khỏi Taiwan và thừa nhận Trung Quốc là thành viên chinh yeu của lien hiep Quốc. Nền kinh tế toàn cầu đã bị bệnh nặng sau khi WTO cho phép Trung Quốc gia nhập. Nếu chúng ta không ngăn chặn chúng bây giờ thì sẽ quá muộn.

Bây giờ hầu như mọi thứ đều được sản xuất tại Trung Quốc. Không chỉ những sản phẩm rẻ tiền và các sản phẩm bị đánh cắp là tội ác, mà là những sản phẩm công nghệ cao đắt tiền mớt thật sự là tội ác kinh tế nguy hiểm. Bởi vì chúng không thật sự được sản xuất ở Trung Quốc, mà là chúng được gia công do nô lệ ở Trung Quốc bằng tiền của các công ty toàn cầu. Trong khi đó, các nhà máy và các thành phố ở Mỹ bị bỏ rơi và công nhân bị sa thải, hầu như không ai có thể tìm được một công việc thực sự.

Nền kinh tế Trung Quốc dựa trên tội ác gian lận và chống lại công nhân. Trớ trêu thay, các công nhân Mỹ được yêu cầu hỗ trợ hệ thống tự sát này để chuyển giao công nghệ và thương mại của họ cho Trung Quốc. Dân chủ của Hoa Kỳ đã bị cướp bởi các tập đoàn đại công ty toàn cầu (global corporations), hầu hết các công ty nhỏ đều phải dời nhà máy sang Trung Quốc vì họ không có sự lựa chọn. Các tập đoàn đại công ty toàn cầu ở Hoa Kỳ vận động quốc hội mỹ vận chuyển nền kinh tế Hoa Kỳ sang Trung Quốc bởi vì nó có lợi cho họ hơn.

Chính phủ Mỹ bị đổ lỗi cho việc không quan tâm đếm xỉa gì cho các công nhân công nghiệp Mỹ. WTO chống Mỹ, Bill Clinton và quốc hội của đãng cộng hòa đã bán nền kinh tế Hoa Kỳ cho CST vào năm 2001. Các công ty lớn đã hợp tác với họ để chuyển các công việc và nhà máy của Mỹ sang Trung Quốc.

Dưới đây là những lý do Bill Clinton đã lường gạt người Mỹ ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu của Trung Quốc:

"... giúp đỡ cho hạnh phúc và do đó tự do của người dân Tàu"! nhưng còn hạnh phúc của người Mỹ thì sao? Ngoài ra, không phải là người Trung Quốc được hưỡng lợi và được tự do nhưng chỉ có CST và tay sai của chúng được mà thôi.

"... tin tưởng vào hòa bình và an ninh ở Châu Á ..."! không có gì là xạo hơn câu này, hãy nhìn vào hành động xâm lược trắng trợn và sự trang bị vủ khí tận răng của CST và sự bất ổn an ninh khu vực nam và đông châu Á ngày nay thì sẻ rỏ.

"... chúng tôi chỉ giao hàng công nghệ chứ không phải công việc cho Trung Quốc"! một sự láo toét lớn, làm thế nào có thể chỉ gửi công nghệ đến Tàu cộng mà không xuất cãng công việc?

Chính sách “giao tế với tàu cộng” của Nixon không phải là để theo chủ nghĩa tư bản Mác xít, điều CST làm là hoàn toàn ngược lại với những gì Clinton đã lường gạt người Mỹ: Trung Quốc không mua gì nhiều từ Mỹ và Trung Quốc không bao giờ có thể được dân chủ hóa bằng tiền, Chủ nghĩa tư bản Mác xít chỉ làm cho CST giàu hơn mạnh hơn côn đồ hơn phản dân chủ hơn và hiếu chiến hơn.

Đây là những tội phạm chính của chủ nghĩa tư bản Marxist:

Gây ô nhiễm cho lợi nhuận
Nô lệ
Thao túng tiền tệ
Đánh cắp tài sản trí tuệ
Trợ cấp xuất khẩu bất hợp pháp
Ăn cắp kỹ nghệ và hãng xưỡng

Gây ô nhiễm cho lợi nhuận
CST sử dụng ô nhiễm để kiếm lợi (không tiêu tiền để chống ô nhiễm). Trung Quốc là nước bị ô nhiễm nhất trên trái đất, ít hơn 1% đô thị Trung Quốc đạt tiêu chuẩn chất lượng không khí. Hoa Kỳ có 100 năm tiến hành chống ô nhiễm, bằng cách dọn hãng sang Trung Quốc, các doanh nghiệp tham lam có thể bỏ qua tất cả thành quả đó. Trung Quốc là nước có môi trường bị suy thoái nhất trên thế giới với nhiều làng ung thư.

Trung Quốc làm ô nhiễm mọi thứ: đất, không khí, nước, ô nhiễm kim loại nặng ... ví dụ, một công ty như Baosteel được phép đổ chất hóa học vào dòng sông. Kiểm soát ô nhiễm có chi phí: 40 $ / tấn thép. Đây là 5% chi phí sản xuất. Điều này làm cho CST có lợi thế vì tiết kiệm được 5% là đủ để lau sạch ngành công nghiệp thép của Mỹ.

Ô nhiễm carbon ở Trung Quốc gây nguy hiểm cho cả thế giới. Phát thải carbon ở Trung Quốc với mức 1000 USD / gmc gấp 7 lần lượng phát thải cácbon của Hoa Kỳ và các thành phố ở Mỹ bị ô nhiễm bởi lượng khí thải carbon từ Trung Quốc.

Nô lệ
Không ai có thể cạnh tranh với chế độ nô lệ. Ở Trung Quốc, không ai được phép bảo vệ người lao động. CST sẽ đàn áp tất cả các hình thức công đoàn và bảo vệ người lao động vì bóc lột lao động là phương tiện làm giàu chính của chúng. Theo báo cáo sai lệch của chúng, Trung Quốc mất 180 nghìn công nhân về tai nạn hàng năm (tất nhiên số thực phải cao hơn nhiều). Ở Trung Quốc, luật lao động trẻ em, luật lao động trong nhà tù, luật sức khoẻ và an toàn ... không có thực và bị lạm dụng hoàn toàn. Trại lao động cưỡng bức mọc lên trên toàn Trung Quốc và tù nhân làm việc mà không được trả tiền.

Thao tác tiền tệ
Thao túng đồng tiền dưới cơ sở là tương đương với đánh thuế hàng xuất khẩu của Mỹ 20%. Ý tưởng về thao túng tiền tệ thì rất đơn giản: thặng dư thương mại dẫn đến đồng tiền mạnh, đồng tiền mạnh dẫn đến chi phí cao từ nước thặng dư thương mại, dẩn đế giá trị hàng hóa xuất cãng đắt hơn, giá trị hàng hóa cao hơn + giá trị tiền tệ nhiều hơn dẫn đến bán ít hơn và mua nhiều hơn từ nước dư thừa.

Điều ngược lại cũng đúng và dẫn đến việc bán nhiều hơn và mua ít hơn từ quốc gia thâm hụt và điều này là sự tự khắc phục sự mất cân bằng thương mại của thị trường tự nhiên dựa trên chức năng đơn giản của cung và cầu.

Thao túng tiền tệ có nghĩa là làm cho đồng tiền của quốc gia nhập siêu cao lên để ngăn chặn hiệu quả tự sửa chữa của thị trường tự nhiên. Bằng cách này, CST có thể giữ được nhu cầu và giá đô la tăng lên, do đó hàng hoá từ Mỹ vẫn còn giá cao hơn và hàng hoá từ Trung Quốc vẫn còn chi phí thấp và thặng dư thương mại tiếp tục. CST sử dụng tiền thặng dư thương mại để mua tiền của Mỹ (đô la) và nâng giá trị đồng đô la, do đó thao túng tiền tệ.

Các nhà đầu tư muốn đồng tiền của họ mạnh trong khi các nhà sản xuất muốn đồng tiền của họ yếu. Mặc dù nhiều quốc gia sử dụng thao túng tiền tệ phần nào, nhưng CST là một tay thao túng nhất nhờ vào tình trạng quyền lực tuyệt đối của họ. CST gây tốn kém và thiệt hại thương mại cho Hoa Kỳ nhiều nhất bởi vì thao túng tiền tệ gian manh, Trung Quốc là một cơ sở thao tác tiền tệ bất chính, không phải là một cơ sở kinh tế dựa vào biến động thị trường tự nhiên.

Ăn cắp tài sản trí tuệ
CST ăn cắp bản quyền gần như tất cả các sản phẩm trí tuệ của Mỹ. Không chỉ CST đã đánh cắp các sản phẩm trí tuệ của Mỹ để làm bản sao của họ, mà còn cướp luôn công ty của họ. Chẳng hạn, chúng cướp công ty Shredder, công ty này đã bị chúng đóng cửa và sau đó bị chúng chiếm quyền và cướp luôn vào năm 2011.

CST đã đánh cắp tất cả mọi thứ sản xuất cơ sở công nghiệp và sở hữu trí tuệ, bao gồm các sản phẩm năng lượng "xanh" như pin mặt trời và các tế bào năng lượng gió, vốn được chính quyền Obama hỗ trợ để tạo công ăn việc làm cho người Mỹ. Và CST đánh cắp không chỉ các công việc mà cả công ty và công nghệ nữa. CST đã đánh cắp kỷ nghệ các công ty nào đã xuất khẩu kỹ nghệ của họ qua nước tàu. Boeing và Air Bus đã bị đẩy ra sau khi CST đánh cắp công nghệ của họ. Bây giờ CST đã tạo ra các công ty máy bay Trung Quốc để chiếm đoạt thị trường của họ trên toàn thế giới.

Sản xuất là nền tảng của nền kinh tế, khi sản xuất di chuyển đi thì nhiều lãnh vực khác cũng di chuyển theo. Ví dụ như, kỹ thuật, nghiên cứu và phát triển cũng phải di chuyển theo. Bằng cách chuyển kỹ thuật sang Trung Quốc, các công ty tạo ra các cơ hội dễ dàng cho CST để ăn cắp công nghệ cùng với việc làm của mỹ.


Trợ cấp xuất khẩu bất hợp pháp
CST hỗ trợ các công ty tư nhân Trung Quốc một cách bất hợp pháp để đánh cắp thị trường. Ví dụ, trong ngành thép, Trung Quốc chiếm 45% sản lượng cung cấp trên toàn thế giới, với chi phí sản xuất cao nhưng họ có thể bán thép với giá thấp nhất và tăng trưởng 8% mỗi năm. Tất cả những điều này được thực hiện bởi sự hỗ trợ bất hợp pháp của chính phủ CST.


Trung Quốc Dân chủ?
Trung Quốc ngày nay ít tự do hơn trước khi gia nhập WTO. Đây là bảng điểm về chống dân chủ của CST:

Lạm dụng và vi phạm nhân quyền
Áp bức Tây Tạng
Tra tấn Pháp Luân Công
Đàn áp tôn giáo và dân chủ

Ức chế Internet: CST có hơn 50 nghìn dịch vụ cảnh sát mạng do chính các công ty Hoa Kỳ giúp đỡ để đàn áp người Tàu. Họ biện minh cho sự cấu kết với áp bức bằng cách nói rằng "chúng ta phải tuân theo luật Trung Quốc" nhưng luật của Trung Quốc là gì? Luật cộng sản có đúng luật không? Hay là nghị định? Và vì cái gì? Ví dụ, Yahoo đã chuyển giao tất cả thông tin của một nhà bình luận chính trị, Shr Tao, điều này dẫn đến việc ông bị bắt và bị 10 năm tù lao động.

Bán các cơ phận của con người, giết chết các tù nhân để lấy các cơ phận đem bán bất cứ khi nào họ cần chúng. Mỹ càng luồng cuối chúng nhiều hơn, cúi đầu với chế độ độc tài nhiều hơn, chúng càng tàn nhẫn hơn.

Sản phẩm nguy hiểm
Đây là bản liệt kê vài sản phẩm độc hại nguy hiểm của tàu cộng


Ống pipe có Arsonic và thủy ngân
Bánh xe không an toàn
Nôi trẻ con làm nghẹt thở
Thực phẩm thú nuôi bị ô nhiễm
Độc tố trong chất chống đông
Các trang trại nuôi cá bị ô nhiễm bởi hooc môn xấu

Cơ quan USDR của Mỹ chỉ có thể kiểm tra 1% cá nhập khẩu từ Trung Quốc, 65% số này bị từ chối nhưng họ vẩn có thể gửi chúng vào các thành phố và tiểu bang khác.



Kết luận: Tất cả các mối nguy hiểm này được thực hiện theo công thức:
Các tập đoàn công ty lớn tham lam + Các chính trị gia tham nhũng + Cộng sản Trung Quốc =  Tư bản Marxist tội ác.
Hệ thống kinh tế Hoa Kỳ (hệ thống tư bản lành mạnh) hoàn toàn khác với kinh tế Trung Quốc (hệ thống tư bản chủ nghĩa Mác xit tội ác). Do đó họ không thể giao dịch tự do và công bằng với nhau được.