Sau thất bại chua cay, nhục nhả của đảng cộng sản Việt Nam
trong cái gọI là "Xô-Viết
Nghệ-Tỉnh" những năm 30-31, Hồ chí Minh triệu tập hội nghị ở Tsin-Tsi
(nước Tàu) để duyệt lại toàn bộ chính sách đối với tình hình Việt Nam; đồng
thời thực hiện nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Komintern trong giai đoạn sắp tới.
Mệnh lệnh của Komintern là phải dấu thật kỹ hình tích cộng sản khoác bên ngoài
vỏ bọc "yêu nước", mang tinh thần "quốc gia chống thực dân đế
quốc"...và đó cũng là nguyên nhân đưa đến hình thành Mặt trận Việt Minh để
thu hút mọi thành phần dân tộc đấu tranh chống thực dân giải phóng dân tộc dưới
sự lãnh đạo của họ Hồ. Do sự lợi dụng được tinh thần yêu nước nồng nàn của
người dân Việt để phục vụ Komintern của Hồ chí Minh, cũng như sự khát khao độc
lập của toàn dân nên đảng cộng sản Việt Nam đã không gặp khó khăn đáng kể trong
việc chiếm chánh quyền ngày 19/08/1945. Họ đã mở ra một kỷ nguyên với núi xương
sông máu chập chùng của tộc Việt cho sự nghiệp bành trướng chủ nghĩa cộng sản quốc tế.
Năm 1937 tại Á Châu , quân Nhật chiếm Thượng Hải, bên Âu châu
quân Ðức tiến đánh Ba Lan năm 1939 mở màn cho thế chiến thứ hai. Cuộc thế chiến
đã lôi kéo nước ta vào một khúc quành bi thảm. Năm 1940 Nhật buộc Pháp phải cho họ đóng quân tại Ðông Dương
trước hết để kiểm soát và ngăn chặn đường tiếp tế vũ khí từ Hải Phòng sang Vân
Nam cho Tưởng Giới Thạch, kế đó làm bàn đạp mở rộng cuộc xâm lăng Ðông Nam Á
ngõ hầu thành lập khối Ðại Ðông Á. Pháp bại trận đầu hàng Ðức ngày 22-6-1940,
đất nước bị Quốc Xã chiếm đóng thực dân Ðông Dương yếu thế lắm nên phải chịu để
Nhật vào theo thoả ước ký kết giữa hai bên ngày 8-9-1940 .
Nhật công nhận chủ quyền của Pháp tại Ðông Dương, bộ máy cai
trị của Pháp vẫn được giữ nguyên nhưng trên thực tế Nhật bắt Pháp phải làm tay
sai cho chúng. Ngẫu nhiên dân ta lại bị rơi vào cảnh một cổ hai chòng, bọn phát
xít còn bóc lột xương tủy khủng khiếp hơn thực dân gấp mười lần. Chúng vơ vét
thóc gạo, ngô, cao xu, than đá, quặng sắt, mỏ kim loại. . chở sang Nhật. Mặc dù
Pháp bại trận, đất nước bị Ðức chiếm đóng, tại Ðông Dương quân Nhật đóng khắp
nơi thế mà Pháp vẫn ngang nhiên cai trị ta, vẫn duyệt binh, ra lệnh, bắt bớ,
trừng phạt, thăng thưởng. . vẫn đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta.
Từ năm 1942 trở đi, Ðông Dương, Việt Nam luôn bị máy bay Ðồng
Minh bắn phá, cuối năm 1943 ga xe lửa Gia Lâm, Hà Nội bị ném bom khiến hằng
ngàn người chết, bị thương. Bom đạn, thóc cao gạo kém. . . người dân khốn khổ
trăm bề. Nhật buộc Pháp phải cung cấp lúa gạo cho chúng. Tính từ năm 1941 đến
1944 trung bình một năm Việt Nam phải cung cấp cho Nhật một số lượng thóc khổng
lồ khoảng gần một triệu tấn, chúng thu mua thóc gạo của dân với giá rẻ để nuôi
quân và chở về nước. Cho tới 1945 có hơn một triệïu quân Nhật đóng tại Việt
Nam, chúng đốt thóc chế cồn thay săng, bắt dân bỏ lúa trồng đay, thu mua ngô để
nuôi ngựa . . đã gây lên nạn đói năm 1945.
Hồi ấy các trục lộ giao thông hay bị máy bay Ðồng minh bắn phá
dữ dội, gạo trong Nam không chở được ra Bắc, dân Hà Nội nối đuôi nhau đong gạo,
nhà nghèo đã phải nấu cháo, trẻ con nhiều đứa mặt mày lem luốc đi bới đống rác
kiếm ăn. Hội từ thiện lập trại tạm trú nấu cháo giúp những người nhà quê lên
xin ăn nhưng chẳng thấm tháp vào đâu, y như muối bỏ biển. Dân quê đổ sô nhau
lên các tỉnh như Hà Nội, Hà Ðông. . tưởng là kiếm ăn được ở những nơi thị tứ
giầu có nhưng nơi đây gạo cũng chỉ vừa đủ ăn cho dân trong tỉnh. Nhiều người
kiệt sức ngã gục ngoài đường phố, xe bò chở người chết vào nhà xác ngày một
nhiều hơn. Tại nhà quê, nhiều vùng chết cả nhà, cả xóm, cả làng. Người ta đào
củ chuối lên ăn, bắt chim, chuột, chó mèo. . làm thịt rồi chim chuột cũng hết,
người dân chết đói như rạ vậy.
Nạn đói năm Ất Dậu 1945, khiến hai triệu người Việt Nam tử
vong. Thủ phạm chính yếu là thực dân Pháp, quân phiệt Nhật, kẻ đồng phạm là
đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy trong mấy mươi năm qua, cộng sản Việt Nam chưa
hề làm lễ giỗ cho các nạn nhân chết đói năm xưa, cũng như chưa bao giờ lên
tiếng đòi hỏi chính phủ Nhật Bản xin lỗi về cái chết của hai triệu người Việt
do quân phiệt Nhật gây ra năm 1945.
Nạn đói kéo dài từ mùa đông năm 1944 đến tháng 5-1945, toàn
quyền Decoux ước lượng có vào khoảng hơn một triệu người chết đói nhưng con số
theo nhiều người ước lượng lại cao hơn thế nhiều. Tỉnh Thái Bình dân số 700,000
người đã có 260,000 người chết, tỉnh Nam Ðịnh dân số 680,000 người, chết đói
230,000 người, Ninh Bình dân số 200,000 người chết đói 38,000 người. . . nạn
đói kéo dài từ Quảng Trị ra Bắc. Ngoài ra các thương gia Hoa kiều đầu cơ tích
trữ cũng là một trong những nguyên nhân nạn đói. Trong khi dân ta chết đói đầy
đường đầy chợ, các kho thóc lúa của Nhật vẫn đầy ắp nhưng bọn phát xít vẫn
không chịu mở kho cứu đói với thâm ý không cho dân ta trỗi dậy để chống lại
chúng.
Tình hình thế giới biến chuyển nhanh mang nhiều thuận lợi cho
việc giành độc lập, Thế chiến thứ hai đã đến hồi gần kết thúc, Ðồng Minh Anh Mỹ
bắt đầu tiến vào phía tây nước Ðức, quân Nga tiến vào phía đông theo thế gọng
kìm. Tại Ðông Dương Nhật biết Pháp sẽ làm nội ứng cho Ðồng Minh nên ra tay
trước. Ðại sứ Nhật tại Ðông Dương Matsumoto đến dinh Norodom tại Sài Gòn chiều
ngày 9-3-1945 yêu cầu Toàn quyền Ðông Dương Decoux phải đặt tất cả các lực
lượng Pháp dưới quyền điều khiển của Nhật. Tám giờ rưỡi tối ấy Decoux từ chối,
Nhật bèn mở cuộc tấn công trên toàn cõi Ðông Dương, họ đốt thêm pháo cối nổ
đùng đùng, hai mươi bốn giờ sau, quân Pháp sợ quá đầu hàng.
Nhật tuyên bố đã đánh đổ Pháp trao trả nền độc lập cho Việt
Nam. Ðại Sứ Nhật vào yết kiến vua Bảo Ðại và xin ngài hợp tác với Nhật. Bảo Ðại
tuyên bố độc lập, ngày 10-3-1945 gia nhập khối Ðại Ðông Á, nhà vua ban hành
tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945 và mời giáo sư Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Nội các được thành lập ngày 17-4-1945, lấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu
Phước làm quốc ca, lấy cờ vàng quẻ ly gồm hai vạch liền và vạch gẫy ở giữa làm
quốc kỳ.
Hai tuần sau khi thủ tướng Trần Trọng Kim thành lập nội các,
ngày 30-4-1945 Bá Linh thất thủ, Hitler tự sát, mặt trận châu Âu hoàn toàn kết
thúc, các lực lượng Ðồng Minh được dồn lại để đánh quân Nhật. Hàng đàn hàng đàn
máy bay đi đánh chìm tầu chiến Nhật tại Thái Bình Dương, đế quốc Nhật đang dẫy
chết. Mỹ đổ bộ chiếm Okinawa, từng đoàn oanh tạc cơ khổng lồ B29 dội bom ồ ạt
xuống đất nước Mặt trời mọc, sáu mươi thành phố lớn của Nhật bốc cháy dữ dội,
khoảng một triệu người bị vùi thây dưới các đống gạch vụn, ai gieo gió thì kẻ
ấy gặt bão.
Ngày 6-8-1945 tổng thống Mỹ Truman ra lệnh ném bom nguyên tử
xuống Hiroshima để sớm kết thúc chiến tranh, sau ba ngày nghe ngóng, phía Mỹ
không thấy dấu hiệu gì chứng tỏ Nhật muốn đầu hàng. Một quả nữa được ném xuống
Nagasaki ngày 8-8, hai lần ném bom đã giết hại mấy trăm nghìn người, Mỹ hẹn cho
Nhật trong ba ngày phải đầu hàng vô điều kiện, nếu không sẽ san bằng Ðông Kinh.
Nhật hoàng sợ quá phải tuyên bố đầu hàng ngày 10-8, ông nói cho dân Nhật biết
địch đã có vũ khí mới vô cùng nguy hiểm.
Thủ tướng Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực,
chính phủ không có quân đội nhưng được lưu nhiệm xử lý thường vu,ï khi ấy tình
hình trong nước rất lộn xộn. Khâm sai đại thần của triều đình tại Hà Nội, ông
Phan kế Toại đã liên lạc các đảng phái quốc gia tìm phương cứu nước nhưng Trung
ương đảng còn ở xa tận bên Trung Hoa. Ngày 17-8 Bảo Ðại kêu gọi các nhà lãnh
đạo đồng minh Truman, Churchill, De Gaulle… để xin công nhận nền độc lập của
Việt Nam. Nhật đầu hàng trao trả Nam kỳ lại cho triều đình Huế
Lúc ba giờ chiều ngày 17-8 Tổng Hội Công Chức tổ chức một cuộc
biểu tình trước nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ thu hồi chủ quyền. Hàng vạn
người đứng đầy đường Paulbert, người đi xem rất đông, trên bao lơn nhà hát lớn,
cờ quẻ ly được kéo lên. Mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô
chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to Việt Nam độc lập muôn năm,
nhưng lại có kẻ lẻn vào hàng ngũ công chức dơ cờ đỏ sao vàng lên hoan hô Mặt
trận Việt Minh.
Ðoàn biểu tình chuyển hướng qua các đường phố, rồi bỗng có mấy
anh mặc áo đen quần đùi nhập vào phất cờ đỏ sao vàng, dơ súng lục bắn chỉ thiên
hô to “Mặt trận giải phóng muôn năm”, mới đầu có vài người hô theo sau rồi hàng
trăm, hàng nghìn người hô theo phần vì thấy súng bắn sợ quá. Sau cuộc biểu tình
Việt Minh phân phát cờ đỏ sao vàng cho dân chúng để đón quân giải phóng sắp ở
chiến khu về. Hàng trăm, hàng ngàn người vào Bắc bộ phủ hô đả đảo phát xít,
hoan hô giải phóng, hô hào dân chúng đi chiếm các công sở, khi ấy trống ngũ
liên nổi lên, đê làng Ðông lao, Hà Ðông bị vỡ, nước tràn vào đồng ruộng. Khâm
sai triều đình Phan Kế Toại từ chức trao quyền cho Việt Minh vì quá sợ hãi, và
cũng vì con là Phan kế Bảo theo Việt Minh về móc nối bố. Ngày 19-8 Việt Minh
phát cờ tay cho dân chúng kêu gọi tham gia ủng hộ Mặt Trận.
Ngày 21-8 tại Huế phong trào Việt Minh bừng nổi dậy. Ðại sứ
Nhật đã nhận được chỉ thị của Ðông Kinh phải giữ ngôi cho Hoàng đế Bảo Ðại, ông
ta cũng thấy khó chịu trước những trò chướng tai gai mắt của Việt Minh nên đã
bàn với Thủ tướng Trần Trọng Kim như sau:
Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng Ðồng Minh nhưng quân đội Nhật tại
đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Ðồng minh đến
tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự.
Nhưng vì sợ trách nhiệm với Ðồng minh sau này, phần sợ mang
tiếng cõng rắn cắn gà nhà và cũng vì muốn giữ tiếng thơm trước lịch sử, Thủ
tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ. Ðại sứ Nhật cũng vào yết kiến Bảo Ðại xin nhà vua cho phép dẹp
loạn tái lập trật tự để bảo vệ ngai vàng nhưng Ngài cũng từ chối. Ðức Kim
Thượng và Thủ tướng đã bỏ lỡ cơ hội nghìn năm một thuở để cứu đất nước vào giờ
chót. Vì thiếu can đảm, sợ trách nhiệm với quân đội Ðồng minh sau này các Ngài
đã vô tình để cho đại hoạ giáng lên đầu trăm họ và còn di hại đến muôn đời.
Tại Bắc bộ phủ, phó lãnh sự Nhật cũng đến gặp bác sĩ Nguyễn
xuân Chữ Chủ tịch Ủûy ban giám đốc chính trị miền Bắc và bầy tỏ thiện chí.
-Chúng tôi hiện đặt dưới sự điều động của các ngài.
Nhưng bác sĩ cũng lờ đi, cơ hội bằng vàng đã qua đi không bao
giờ trở lại để rồi đất nước bị rẽ vào một khúc quành vô cùng bi đát.
Ngày 22-8 Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Ðại thoái vị, họ
đã cướp được chính quyền. Bảo Ðại tuyên bố chấp nhận thoái vị, từ bỏ ngai vàng
vì nền độc lập của đất nước. Ngày 25-8 hàng mấy vạn người tụ tập trước Ngọ Môn
Lâu xem nhà vua thoái vị, Ngài tuyên bố:
-Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.
Sau đó Ngài trao ấn, kiếm cho đại diện Việt Minh Trần Huy Liệu
và được gắn huy chương công dân Vĩnh Thụy. Khi vua Bảo Ðại chính thức thoái vị,
Hồ Chí Minh ở Tân Trào mới về Hà Nội, người ta vẫn chưa biết Hồ Chí Minh là ai.
Trong khi ấy tại Sài Gòn Ðức Huỳnh Phú Sổ kết hợp các đoàn thể quốc gia Cao
Ðài, Hoà Hảo, Việt Nam Quốc Dân đảng, Ðại Việt… thành Mặt Trận Quốc Gia Việt
Nam Thống Nhất, tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại chống Pháp.
Ngày 2-9 tại công viên Ba Ðình Hà Nội Hồ Chí Minh đọc tuyên
ngôn độc lập, lấy bài Tiến Quân Ca của Văn Cao làm Quốc ca, hôm ấy có cử bài
Quốc ca Mỹ, người bạn đồng minh đã giúp đỡ họ nhiều vũ khí chống Nhật. Việt
Minh cướp chính quyền rập khuôn theo sách lược của Lénine trong cuộc cách mạng
vô sản tại Nga năm 1917, áp dụng triệt để bạo lực cách mạng: thủ tiêu, bắn
giết, chôn sống… hằng hà sa số người Quốc gia, tình nghi, những kẻ không theo
hoặc chống lại họ. Tại miền Nam, Việt Minh giết hại nhiều tín đồ Hoà Hảo, Cao
Ðài. Ngày 8-9-1945 chính phủ lâm thời Việt Minh quyết định tổ chức bầu cử Quốc
hội lập hiến, tổ chức quyên vàng mua súng.
Khi Pháp bị Nhật đảo chính 9-3-1945, Việt Minh thừa cơ phục
kích đám tàn quân Pháp chạy trốn sang Tầu, thu được nhiều súng ống. Tháng
6-1945 Mỹ thả dù xuống chiến khu Việt Minh, cung cấp cho Hồ chí Minh khoảng năm
ngàn khẩu súng đủ loại để chống Nhật, cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi. Sau khi
Việt Minh cướp chính quyền, quân Tầu sang giải giới Nhật, Hồ chí Minh cho tổ
chức tuần lễ quyên góp vàng, dùng tiền bạc, gái đẹp, thuốc phiện hối lộ tướng
Lư Hán nên đã không bị Lư Hán lật đổ theo lệnh của Tưởng Giới Thạch. Việt Minh
lại mua được nhiều súng lậu của các thương gia Hoa kiều, của Quốc Dân Ðảng
Trung Hoa. Ðầu năm 1946 họ đã có khoảng hai mươi ngàn quân, cuối 1946 có tám
vạn súng đủ các loại kể cả súng cối. Cuối 1946, quân đội Việt Minh có vào
khoảng ba chục ngàn người phía trên vĩ tuyến 16.
Ngày 6-9-1945 quân Anh tới Sài gòn để giải giới quân Nhật,
Pháp theo chân Anh tới miền Nam, Anh công nhận chủ quyền của Pháp. Kế đó Pháp
chiếm Sài Gòn, Vũng Tầu, Gò Công, Vĩnh Long, Cao nguyên Trung phần, kháng chiến
Nam bộ bùng nổ. Tại miền Bắc, ba ngày sau gần hai trăm ngàn quân Tầu của tướng
Lư Hán sang giải giới Nhật, một đạo quân đói rách ô hợp mang theo cả nồi niêu
xoong chảo, dắt díu vợ con theo sang ăn hại nước ta, các quan Tầu làm thịt chó,
hút thuốc phiện rất bệ rạc. Các lực lượng Quốc gia như Việt Nam Cách Mạng Ðồng
Minh Hội của cụ Nguyễn Hải Thần, Việt Nam Quốc Dân Ðảng của Vũ Hồng Khanh theo
chân quân Tầu về nước. Tướng Lư Hán theo lệnh của Nam Kinh buộc các Ủy ban cách
mạng Việt Minh tại Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh… phải giao
lại cho Việt Quốc và Việt Cách. Trước khi Lư Hán đem quân sang, Tưởng Giới
Thạch đã lệnh cho Lư phải lật đổ chính quyền Cộng Sản nhưng Hồ đã cho quyên
vàng hối lộ Lư Hán, Lư đã không thi hành lệnh của Tưởng.
Tranh chấp giữa Quốc Gia và Việt Minh bùng nổ. Việt Cách, Việt
Quốc ra báo, tổ chức diễn thuyết mạt sát Việt Minh lừa bịp các đảng phái quốc
gia, âm mưu lập chế độ Cộng sản. Việt Minh mạnh hơn vì đã chiếm được chính
quyền , các đảng phái Quốc Gia trở về nước trễ, không lôi cuốn được quần chúng.
Mỹ là người đầu tiên giúp khí giới cho Việt Minh từ tháng 6-1945 để cứu các phi
công Mỹ bị bắn rơi và kháng chiến chống Nhật. Từ đó Mỹ liên hệ sát cánh với Hồ
Chí Minh. Trước áp lực của Lư Hán đóng quân lì ra không chịu về, phe
Quốc gia và Hồ chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp, Việt Minh nhường cho
Việt Cách, Việt Quốc 70 ghế trong Quốc Hội. Tổ chức bầu cử Quốc Hội từ 1-9-1945
đến 6-1-1946, bầu cử không tự do, cử tri bỏ phiếu cho những người đã được chỉ
định sẵn.
Trong khi ấy Pháp vận động với Tưởng Giới Thạch cho Pháp thay
Tầu giải giới quân Nhật, hai bên ký Hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946 cho
phép Pháp lên trên vĩ tuyến 16 với lý do chính thức: giải giới quân Nhật. Ðổi
lại Pháp sẽ trả lại các tô giới cũ, nhượng cho Tầu quãng đường xe lửa Vân Nam, Lào
Kay, Vân Nam Phủ, ưu đãi Hoa Kiều ở Ðông Dương. Tưởng Giới Thạch thấy không can
thiệp được vào Việt Nam vì phe Quốc gia chia rẽ, không lôi cuốn được quần
chúng, chẳng lẽ để Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản nên ông bèn để cho Pháp trở
lại.
Pháp đòi đem quân ra Bắc, Hồ Chí Minh vận động nhờ Mỹ can
thiệp không cho Pháp trở lại. Người Mỹ yêu cầu Hồ từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, bỏ
lá cờ đỏ thắm như máu của Cộng Sản Quốc tế thì sẽ đuổi không cho Pháp trở lại
vì họ còn lệ thuộc vào viện trợ tái thiết của Mỹ. Hồ không chấp thuận lời yêu
cầu ấy nên Mỹ đã để mặc cho Pháp lộng hành cuối cùng Hồ phải để cho Pháp ra Hà
Nội thay Tầu. Ngày 18-3-1946 quân Pháp ở Hải Phòng tiến về Hà Nội, Hồ chí Minh
với tư cách chủ tịch lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã long trọng đưa
tay thề trước quốc dân :"Thề không điều đình với Pháp".
Thế nhưng để củng cố vị thế chính trị của ông ta và đảng cộng sản, họ
Hồ đã bí mật điều đình với Pháp (qua Sainteny) ký Hiệp ước Sơ Bộ ngày 6/3/1946
để đem Pháp trở lại chiếm đóng Đông Dương, cùng Pháp phân chia lợi nhuận, nhất
là được Pháp công nhận và mượn tay thực dân tiêu diệt các đảng phái Quốc gia.
Tại Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, Việt Minh chỉ điểm
cho Pháp bắt bớ tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia. Tháng 7-1946 Võ
Nguyên Giáp chỉ huy tấn công lực lượng Việt Nam Quốc Dân đảng các tỉnh Thượng
du, như Bắùc Ninh, Lạng Sơn, Bằng Giang, họ giết cả tù binh, tàn sát dã man các
thương binh, đó là những ngày khởi đầu của cuộc chiến tranh Quốc - Cộng. Việt
Minh được Pháp tiếp tế đạn dược đầy đủ nên đã đè bẹp các lực lượng Việt Quốc,
Việt Cách, tàn quân của Quốc gia còn độ một nghìn người chạy trốn sang Tầu.
Khi chính phủ cánh hữu lên cầm quyền ở Pháp , Pháp không muốn
điều đình tiếp với cộng sản Việt Nam (tức Việt minh), và quân Pháp đã tấn công
Việt minh cũng như các tổ chức quốc gia Việt Nam. Lo sợ bị tiêu diệt, Hồ chí
Minh bất đắc dĩ phát động ngày "toàn quốc kháng chiến 19/12/1946
!!! ". Cuối tháng 10-1946 Pháp cho tầu chiến bắn phá Hải Phòng chết
sáu, bẩy ngàn người dân vô tội. Ngày 20-11-1946 Pháp xua quân chiếm Hải Phòng.
Tự vệ thành chiến đấu rất anh dũng, hằng trăm người hy sinh, quân Pháp tràn vào
các khu phố, bắn giết cả thường dân, những người thương binh quằn quại trên
vũng máu cũng bị tàn sát hết. Tại Hà Nội, Pháp ngày càng gây hấn hơn trước, đầu
tháng 12 chúng ném lưu đạn vào các đồn Tự vệ. Chính phủ Việt Minh và Vệ Quốc
quân rút về Hà Ðông. Từ trung tuần tháng 12 đã có lệnh tản cư dân chúng ra khỏi
Thủ đô để Tự vệ dễ chiến đấu, các nhà đục tường thông nhau, chỉ những người
chiến đấu ở lại.
Từ chiều 19-12-1946, quân Pháp được lệnh cắm trại vì có tin
Việt Minh âm mưu ám sát lính đi la cà ngoài phố, đến nửa đêm Võ Nguyên Giáp ra
lệnh tấn công các trại lính Tây. Nhiều sĩ quan Nhật theo Việt Minh chỉ huy trận
đánh, để chạy tháo thân họ thả mấy trăm con rắn ở viện Pasteur. Vệï Quốc quân
đã rút từ trước để Tự vệ thành ở lại làm bia đỡ đạn, đa số là các thanh niên
học sinh, họ chiến đấu rất anh dũng. Sau lực lượng Tự vệ trở thành Trung đoàn
Thủ đô, súng ống đạn duợc thiếu thốn, họ hy sinh cả ngàn người, cầm cự được hai
tháng mới rút khỏi Hà Nội. Quân Pháp tràn vào bắn giết cả thương binh, thường
dân vô tội.
Tháng 9 năm 1947, Pháp chính thức trao trả độc lập cho Việt
Nam với vua Bảo Đại qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ký ngày 5 tháng 6 năm 1948.Vua
Bảo Đại chọn mẫu cờ vàng ba sọc đỏ của Họa Sĩ Lê Văn Đệ vẽ nối dài 3 vạch đỏ
của cờ Quẻ Càn) làm quốc kỳ và bản “Tiếng Gọi Sinh Viên” sau đổi là “Tiếng Gọi
Thanh Niên”của Lưu Hữu Phước làm Quốc Ca.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu
hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối
Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Một thành tựu ngoại giao của
Quốc gia Việt Nam là việc thâu hồi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa từ tay Nhật Bản vừa mới thất trận tại Hội nghị San Francisco Tháng
Chín năm 1951. Cộng sản Việt Nam (Việt Minh) đã giành độc quyền kháng chiến
bằng cách loại bỏ thẳng tay (tàn sát) những thành phần dân tộc không cộng sản. Do
nguyên nhân đó, những thành phần dân tộc đã thấy ra nhu cầu cần kết hợp thành
một lực lượng quân sự duy nhất để chống lại cộng sản, nên bất đắc dĩ phải
đứng chung chiến tuyến vói Pháp.
Từ ý niệm đó đã hình thành Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ năm
1946 và chính thức hình thành vào năm 1950. Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố
thành lập Quân Ðội Quốc Gia với lập trường chống Cộng, gia tăng quân số lên
60,000 người. Ngày 5 tháng 5 năm 1951, Bộ Quốc Phòng Việt Nam mới thật sự thành
hình. Cuối năm 1951, quân số dưới cờ lên tới 110,000 người. Các đơn vị nồng cốt
gồm:
- Tiểu đoàn Nhẩy Dù
- Ðại Ðội 1 & 3 Truyền Tin
- Chi Ðoàn I Thám Thính Xa
- Tiểu Ðoàn Pháo Binh
- Ðại Ðội 2 & 3 Công Binh
Từ 1952-1954, các quân binh chủng, các quân trường đã được
thành lập đầy đủ để đáp ứng với nhu cầu bảo vệ đất nước. Kể từ đầu năm 1953 cho
tới khi ký kết hiệp định Geneve 1954, có 4 sự kiện đáng ghi nhớ: 1/ Phát triển
các bộ tham mưu, các bộ chỉ huy từ trung ương đến các quân khu, tiểu khu theo
hệ thống của quân đội chuyên nghiệp; 2/ Thành lập thêm Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và 54
tiểu đoàn khinh quân; 3/ Thành lập 15 liên đoàn bộ binh và 1 liên đoàn nhẩy dù;
4/ Phía Pháp bàn giao dần vùng trách nhiệm an ninh cho Quân Đội như các tiểu
khu Mỹ Tho (Nam Việt), Hưng Yên, và Bùi Chu (Bắc Việt).
Ngày 12 tháng 4 năm 1954, thủ tướng Bửu Lộc ban hành lệnh tổng
động viên. Ngày 16 tháng 6 năm 1954 ông Ngô Đình Diệm được quốc trưởng Bảo Đại
bổ nhiệm làm thủ tướng của Quốc Gia Việt Nam. Lúc đó Pháp đang gặp khó khăn
trên chiến trường, nhất là mặt trận Điện Biên Phủ, nên quyết định tổ chức hội
nghị chia đôi nước Việt Nam và quân Pháp có thể rút khỏi VN trong danh dự. Hội nghị Genève diễn ra ngày 20/07/1954 gồm có Ngoại trưởng
Trần Văn Đỗ (Quốc Gia Việt Nam), Phạm văn Đồng đại diện miền Bắc Việt Nam,
ngoại trưởng Anh Anthony Eden làm chủ tịch hội nghị. Ngoài ra còn có đại diện
các nước Pháp, Trung cộng, Nga v.v..Cộng sản Việt Nam thoả hiệp với thực dân
Pháp chia đôi đất nước Việt Nam.
Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ kịch liệt phản đối sự chia đôi này và
không ký vào văn bản của hiệp định. Hoa Kỳ cũng không ký vào văn bản. Ở Hà Nội
khi nghe tin đất nước VN bị chia cắt ở vĩ tuyến 17, các tổ chức quốc quốc gia
tập hợp thành một mặt trận chống cộng và phản đối kịch liệt, đồng thời quyết
định tổ chức cướp chính quyền và ở lại chiến đấu giữ cố đô Thăng Long. Mọi việc
đang được chuẩn bị chu đáo, thì giữa chừng bị bỏ dỡ, vì Đỗ Đình Đạo (cán bộ
VNQĐD) bị Thụy An (tay sai thực dân Pháp và cộng sản) đầu độc chết. Các tổ chức
quốc gia dân tộc đành phải đau đớn rời khỏi kinh thành Thăng Long yêu quý theo
quy định của hiệp định.
Ngày 22/07/1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ
toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối chia đôi đất
nước.
Tài Liệu online