VẠCH MẶT HỒ CHÍ MINH
Huy Phong và Yen Anh
Một số phóng viên Mỹ gọi ông ta là một nhà
lãnh đạo của người Việt quốc gia hay là một George
Washington của Việt Nam và mô tả rằng ông ta nắm một
văn bản Hiến pháp Hoa Kỳ trong tay khi nói chuyện với
họ. Họ nhanh chóng tuyên truyền qua Mỹ, hình ảnh của
một người đàn ông phi thường, đóng một vai trò lịch
sử trong phần đất đó của thế giới (Đông Dương).
Tại Việt Nam, con cháu cộng sản của ông ta bao bọc
quanh ông ta một giáo phái với một sự sùng bái
thần tượng điên cuồng. Tất cả mọi thứ về ông ta,
từ lời phát biểu của ông ta, tác phẩm mà chúng tuyên
truyền là của ông ta, quần áo và dép của “Người”
đã được trân trọng là di tích thiêng liêng. Tuy nhiên,
ngươc lại thì một phần lớn rất bao la của người
Việt đã và đang chất đống những lời chửi rủa ông
ta. Sự khinh khi, phẫn nộ và hận thù ông ta ăn xâu
trong lòng dân này đã tạo ra một bộ phận phong phú
của văn học phổ biến bằng các cụm từ dí dỏm, những
lời nói văn chương, những câu đối và bài thơ ngắn,
và bằng cách sử dụng sự tinh tế và đặc thù ngôn ngữ
của họ như là một vũ khí chính trị. Bộ phận văn học
này đã là một phần của ngôn ngữ Việt và sẽ vẫn
mãi mãi hiện hửu với dân tộc Việt.
Vì vậy, người Việt cảm thấy xúc phạm sâu sắc khi
họ nghe nói rằng UNESCO đã lập kế hoạch để vinh danh
ông ta. UNESCO, động cơ tuyên truyền chính của Liên
Hợp Quốc đã cố gắng quốc tế hóa và duy trì sự sùng
bái ông ta. Một động thái như vậy cũng không lạ, với
bản chất thật sự của Liên Hợp Quốc trong quá khứ,
và những hoạt động của UNESCO trong các lĩnh vực văn
hóa và giáo dục. Dù UNESCO có quan tâm đến việc biết
sự thật những gì họ đang làm, người Việt vẩn nhất
quyết đưa ra sự thật về cái tên anh hùng của UNESCO
này.
Tuy nhiên, trong việc tìm kiếm chân lý, người ta lần
đầu tiên phải đối mặt với những gì mà Winston
Churchill gọi là “một câu đố được bao bọc trong một
bí ẩn của một huyền thoại”. Bạn có thể thậm chí
không thể gọi ông ta bằng tên mà không là nạn nhân của
sự lưa gạt. Ông ta tự xưng là Hồ Chí Minh và Nguyễn
Ái Quốc, mà thật ra ông ta không phải những người này.
Vì vậy, quả là một nhiệm vụ không nhỏ để đào sới
các hồ sơ lịch sử, mang các sự kiện ra ánh sáng và
phơi bày sự thật về ông ta.
HỒ SƠ LÝ LỊCH
Những dữ liệu cá nhân nào? Chúng ta thậm chí không
biết chắc chắn năm sinh của ông ta. Có đến năm năm
sinh được tìm thấy trong sách báo. Bản thân ông ta đã
cho hai năm sinh: 1892 trong đơn sinh học trường học thuộc
địa Pháp, và 1890 trong cuốn sách của ông ta dưới bút
danh Trần Dân Tiên. Dịch vụ kiểm soát và hỗ trợ cho
người bản xứ thuộc địa Pháp (Nationales de France) ghi
năm sinh là 1894, có lẽ từ lời khai của chính ông ta. Hộ
chiếu được thực hiện cho chuyến đi đầu tiên sang Nga
của ông ta (1923) cho thấy năm sinh là 1895. Yên Sơn, một
nhân viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyên bố năm
sinh của ông ta là 1891 trong một bài viết tựa đề
“Nguyễn Ái Quốc, nhà vô địch sáng ngời của cuộc
Cách mạng” trong báo Thông Tin, ngày 30 tháng 8 năm 1945,
Hà Nội.
Theo danh sách các ứng cử viên trong cuộc bầu cử năm
1946 (lần đầu tiên sau khi ông ta nắm quyền kiểm soát),
nơi sinh của ông ta là ở tỉnh Hà Tĩnh. Chỉ năm sau đó
mọi người tìm ra rằng địa điểm thật nơi sinh của
ông ta là làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An.
Trong số rất nhiều cái tên của ông ta, có hai tên
được biết đến rộng rãi nhất . Đó là Hồ Chí Minh
(Hồ - người giác ngộ) và Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn
- người yêu nước). Tuy nhiên, như sẽ được giải thích
sau, những tên này không phải là của ông ta. Ông ta chiếm
đoạt từ người khác cho mục đích chính trị. Ở đây
chúng ta chỉ muốn gọi bằng tên thật của ông ta, đó
là Nguyễn Tất Thành hoặc Thành, ngay cả sau khi ông ta đã
trở thành Hồ Chí Minh hay Nguyễn Ái Quốc.
Cha của ông ta, Nguyễn Sinh Huy, đạt được học vị
phó bảng và đã làm một vị quan nhỏ một thời gian.
Thành là con út trong ba người con. Anh trai Nguyễn Tất Đạt
của ông ta (hoặc Cả Khiêm) đã không đạt được bất
kỳ sự thành công trong học tập và sống một cuộc sống
như một thầy địa lý và Y sĩ thuốc nam. Chị gái của
ông ta, Bạch Liên hoặc Thanh, không lập gia đình và tự
coi mình là một thất bại.
Nguyễn Tất Thành đã được học tại một trường
Pháp Việt và sau khi nhận được một giấy chứng nhận
của giáo dục cơ bản trong năm 1905 đã đi dạy tại
trường tiểu học Đức Thành ở tỉnh Phan Thiết. Trong
năm 1911, ông ta sang Pháp theo tàu Admiral Latouche-Tre’ville,
trang trải chi phí tàu bằng cách làm việc, có lẽ là một
người phục vụ bồi bàn hoặc nhà bếp; hãng Compagnie
des Chargeurs Reunis điều hành chiếc tàu.
HÀNH ĐỘNG ĐẦU TIÊN Ở PHÁP
Việc đầu tiên ông ta đã làm sau khi tới Marseille là
nộp đơn xin nhập học vào trường thuộc địa. Ngày 15
tháng 9 năm 1911, ông ta đã viết một bức thư gửi Bộ
trưởng Bộ thuộc địa và Tổng thống của nước Pháp.
Dịch ra, nó đọc như sau:
Thưa ông Bộ trưởng,
Tôi là Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1892 tại Vinh, con trai của ông
Nguyễn Sinh Huy (phó tiến sỉ văn học)… Tôi là học sinh với đặc
tính Pháp, Việt Nam và Trung Hoa…
Bức thư kết luận bằng những sáo ngữ liên kết với
nhau một cách không mạch lạc, làm cho ngữ pháp không
chính xác (trong phiên bản tiếng Pháp). Nhưng điều này
cũng không giãm được sự thật mà tổng thể của lá
thư phản ánh đó là sự hăng hái chân thành của Thành
trong việc tìm cách nhập học vào các trường thuộc địa.
Nó mạnh mẽ cho thấy rằng Thành đã đi đến Pháp không
phải với ý tưởng của cuộc cách mạng trong tâm trí,
nhưng để tìm kiếm một nghề nghiệp như là một viên
chức được trả lương của hệ thống hành chính thực
dân Pháp tại Việt Nam. Điều này giải thích lý do tại
sao Thành không lợi dụng các chương trình Đông Du, được
tổ chức bởi Phan Bội Châu và hoạt động khắp nước
để tuyển dụng những người thanh niên trẻ với tâm
trí cách mạng và với truyền thống lâu dài chống Pháp
trong gia đình và gửi họ sang Nhật Bản và Trung Quốc
đào tạo. Hơn thế nữa, cha anh và chị của Thành
không thích Phan bội Châu và công cuộc cách mạng của
ông (Đặng Thai Mai, Hồi ức, Hà Nội, 1985, trang 234-238).
Sự thật về việc Thành, xin vào các trường học
thuộc địa với mục đích tìm kiếm một sự nghiệp
phục vụ cho người Pháp, đã được tăng cường hơn nữa
bởi sự thật rằng đơn xin này không bao giờ được đề
cập đến bởi Nguyễn Tất Thành và những người cộng
sản viết về ông ta. Trong thực tế, công chúng đã không
biết đến hai lá đơn xin học này cho đến khi chúng bị
phát hiện năm 1983 tại văn khố quốc gia Pháp, mục
Outre-Mer, Ecole Coloniale, do một nhà nghiên cứu Việt nam.
Đối với cộng sản Việt Nam, điều này không gì khác
hơn là cái đinh trên đường đi của chúng. Những người
thân thiện với Hà Nội, như nhà văn Pháp D. Hemery, đã
cố gắng để bôi bác ý nghĩa của những lá thư này.
Một số khác cố gắng một cách tuyệt vọng để bảo
vệ Nguyễn Tất Thành bằng cách nói rằng Thành chỉ bắt
chướt Phan Chu Trinh, đó là hợp tác thân thiện với Pháp
để làm họ cải thiện các chính sách thuộc địa của
họ. Đúng, Phan Chu Trinh đã xem xét một cách nghiêm trang
phương pháp hợp tác trong một thời gian ngắn khi thống
đốc Pháp ở Đông Dương có ý tưởng mở cửa cho tư
tưởng tự do; nhưng khi ông này được thay thế bởi một
người thuộc loại thực dân, Phan Chu Trinh đã nhanh chóng
thay đổi thái độ của mình đối với người Pháp. Hơn
nữa, nếu Thành đã có ý định đáng khen ngợi là tìm
kiếm lợi ích của đất nước thông qua hợp tác thân
thiện với người Pháp, thì sau đó ông đã sẻ không bao
giờ quên đề cập đến kế hoạch của mình và đã sẻ
kễ lễ nó trong cuốn sách của ông.
ÔNG TA CÓ SỐNG Ở LUÂN ĐÔN KHÔNG?
Chúng ta biết rằng Nguyễn Tất Thành đã không được
nhận vào trường thuộc địa. Đó là vào năm 1911. Chúng
ta cũng biết rằng vào cuối năm 1919, ông ta đã có một
địa chỉ thường trú tại Paris. Trong 8 năm, không có
bằng chứng chắc chắn nơi ở của ông ta.
Theo cuốn sách của chính ông ta và theo Hồng Hà người
sửa mới cuốn sách một lần vài trang, Nguyễn Tất Thành
đã đến Luân Đôn để học tiếng Anh, đầu tiên đã
làm công việc lặt vặt, sau đó làm việc như là một
người rửa chén tại khách sạn Carlton nổi tiếng, sau đó
người đầu bếp Pháp thăng chức ông ta lên làm nấu
bánh. Những mẩu thông tin được xen kẽ trong nhiều câu
chuyện minh họa tinh thần yêu nước của Thành, nhiệt
tình cách mạng, sự quan tâm cho người nghèo và độ bền
bỉ chịu đựng khó khăn cao. Hồng Hà cũng nói về những
hoạt động cách mạng khác của Thành: “Nguyễn Tất
Thành đã tham gia các công đoàn lao động nước ngoài và
đã tuyển nhiều người Việt yêu nước ở Anh Cùng công
nhân Anh, ông ta đã tổ chức các cuộc biểu tình trên bờ
kè sông Thames, đòi hỏi tự do, dân chủ và quyền cho
người lao động. Với sức mạnh của một thác nước,
sự thôi thúc của lòng nhiệt thành đã đẩy ông về
phía trước vượt trên tất cả các khó khăn, gian khổ
và thiếu thốn (Hồng Hà 1, trang 34).
Trong thời gian này, an ninh Pháp đã được thông báo
bởi một người mật thám Việt Nam rằng Phan Chu Trinh
(một người Việt quốc gia yêu nước lúc đó sống tại
Pháp dưới sự giám sát) có thể là đang liên lạc với
một người tên Nguyễn Tất Thành ở Luân Đôn. Thông tin
này đã được Pháp yêu cầu Cục tình báo ở Luân Đôn
cho biết, và sau những nỗ lực bao quát họ đã không thể
xác định vị trí của Nguyễn Tất Thành.
Hồ sơ tại Văn phòng nước ngoài tại Luân Đôn cho
thấy như sau: Ngày 23 tháng 6 năm 1925, Văn phòng nước
ngoài Luân Đôn nhận được, thông qua Đại sứ quán
Pháp, một thông điệp từ Bộ Ngoại giao Pháp yêu cầu
sự giúp đỡ trong việc truy tìm tông tích của hai người
Việt Nam, Thành và Tất Thành, tình nghi là có thể đang
sống ở Luân Đôn. Họ đã cho địa chỉ của mỗi người:
Tất Thành là số 8 Stephen Street, Tottenham, Luân Đôn. An
ninh nước Anh đã đến làm việc và đã dễ dàng tìm
thấy Thành (tên là Joseph Thành, một sinh viên). Họ giữ
anh ta dưới sự giám sát trong nhiều năm và cuối cùng đã
loại bỏ anh ta ra khỏi danh sách những kẻ tình nghi. Về
Tất Thành thì sau nhiều năm điều tra đã không có gì.
Tất cả các thông tin trên đến từ một nghiên cứu của
Nguyễn Thế Anh người đã công bố kết quả này trong
Tạp chí Đường Mới, số 7 năm 1984, Paris, dưới tiêu đề
“Suy nghĩ gì về cuộc sống nghèo đói của Hồ Chí
Minh?”.
Cũng theo ông Nguyễn Thế Anh, ông Denis Duncanson, người
Anh, chuyên gia về Đảng Cộng sản Việt Nam, đã viết
một cuốn sách có tựa đề “Chính phủ và cách mạng ở
Việt Nam”, trong đó ông nói rằng những câu chuyện về
cuộc sống của Hồ Chí Minh ở Anh, làm những việc như
học nghề làm bánh và đôi khi đi viếng thăm những nơi
hội họp của Hội Fabian là những chuyện cố ý bịa
đặt.
Vì vậy, tất cả các bằng chứng cho thấy Nguyễn Tất
Thành, sau khi bị từ chối nhập học vào trường thuộc
địa, đã tiếp tục làm việc cho Reunis Chargeurs, đi từ
cảng này qua cảng kia và thỉnh thoảng đến nước Anh
nhưng không sống ở đó. Điều này đúng mặc dù thực
tế rằng trong cuốn sách của ông ta viết, ông ta có thể
đề cập đến một số chi tiết chính xác về cuộc sống
ở Luân Đôn. Bởi vì ông ta có thể dễ dàng nhận nhiều
thông tin từ những cuộc hội thoại hàng ngày với Phan
Văn Trường, một luật sư đã đi học ở Luân Đôn nhiều
năm và là ân nhân đã cho Tất Thành cư ngụ trong ngôi
nhà của mình sau khi Thành đến Paris. Việc Thành khẳng
định được học nghề làm bánh trong một khách sạn ở
Luân Đôn là điều tự nhiên vì đó là việc mà ông ta
rất có kinh nghiệm khi làm việc trên con tàu buôn. Nhưng
đó không phải là cơ hội duy nhất của ông ta để làm
quen với loại công việc đó. Hồ sơ hiện có tại Viện
Marx-Lenin ở Moscow cho thấy Nguyễn Tất Thành, biệt danh
cộng sản là Lin và bí số là 375 đã được nhận vào
Trường Quốc tế Lenin ngày 16 Tháng Chín năm 1934 và trong
thời gian đào tạo thực hành đã được giao vào làm
việc trong nhà máy làm bánh Tháng Mười.
ÔNG TA CÓ VIẾT THƯ CHO PHAN CHU TRINH KHÔNG?
Phan Chu Trinh là một trong những người Việt quốc gia
yêu nước nổi tiếng nhất. Trở về Việt Nam sau khi đi
khắp nơi ở Nhật Bản và Trung Quốc, ông đã bị bắt,
bị một bản án nặng nề nhưng sau đó được thả ra và
được phép sống tại Paris dưới sự giám sát của Pháp.
Quả là một thừa sản tuyệt vời cho một nhà lãnh đạo
đầy khao khát nếu công chúng có thể được thuyết phục
rằng ông ta đã quen thuộc với những nhân vật lớn có
kế hoạch tuyệt vời cho đất nước như Phan Chu Trinh.
Cuốn tự truyện của Thành tuyên bố rằng ông ta đã
gặp Phan Chu Trinh ở Paris sau khi rời khỏi Luân Đôn. Trên
cơ sở này, Hồng Hà cung cấp thông tin chi tiết về những
công văn mà một số được gửi từ Luân Đôn từ Nguyễn
Tất Thành đến Phan chu Trinh. Sau đó, một ấn phẩm của
chính phủ được gọi là “Bộ sưu tập trọn vẹn Văn
Học Việt Nam” liệt kê 4 công văn: 2 lá thư và 1 bưu
thiếp được khẳng định gởi năm 1913 và 1 lá thư được
khẳn định gởi năm 1914. Theo những gì in trong cuốn
sách, chỉ có một lá thư ghi năm 1913 nhưng với một chú
thích rằng việc ghi năm 1913 đã được trích dẩn từ
các thông tin khác trong cuốn sách của Thành (Trần Dân
Tiến). Địa chỉ hồi âm được ghi trong hai lá thư
năm 1913 là số 10 Orchard place, và số 10 Southampton place,
England; và trên bức thư năm 1914 là 8 Stephen Street,
Tottenham, Luân Đôn. Địa chỉ thứ hai này được đưa ra
bởi Bộ Ngoại giao Pháp cho an ninh của Anh vào năm 1925 để
điều tra về Thành. Điều này dường như cho thấy an
ninh Pháp đã tìm ra địa chỉ này bằng cách chặn các
bức thư hoặc nhận được qua một mật báo sau khi Phan
Chu Trinh nhận được nó, hơn nữa ngày thực sự của các
lá thư có thể gần đây hơn 1914.
Trong khi ba lá thư in trong cuốn sách đã được sắp
chữ, một bản sao của tấm bưu thiếp được trung bày
với một tấm hình của Dakar (thuộc địa của Pháp),
đóng dấu tiếng Anh và dấu bưu điện nước Anh. Tất
nhiên, Thành không cần phải sống ở Anh để gửi một
tấm bưu thiếp từ nước Anh. Nếu ông là một thủy thủ
trên một con tàu buôn Pháp dừng lại tại nhiều hải
cãng, ông có thể mua và gửi một tấm bưu thiếp trong
khi ở Luân Đôn hay, ông có thể mua một tấm bưu thiếp
ở Dakar và mang nó đến Luân Đôn để gửi. , Trong tất
cả các lá thư, Thành tha thiết yêu cầu trả lời: “Hãy
viết thư cho tôi”, hoặc “Xin hãy trả lời ngay”, hoặc
“Hy vọng được nghe từ ông sớm”. Tuy nhiên, trong bài
viết của mình Thành và các nhà văn xu nịnh của ông
không thể sản xuất một câu trả lời hồi âm nào từ
Phan Chu Trinh.
Vì vậy, tất cả các dấu hiệu cho thấy rằng Thành
không quan tâm đến câu trả lời từ Phan chu Trinh, nhưng
chỉ quan tâm về việc tạo ra huyền thoại rằng ông
tương tác với nhà yêu nước vĩ đại.
CÓ PHẢI ÔNG TA THẬT SỰ LÀ NGUYỄN ÁI QUỐC?
Ngày sớm nhất khi cái tên Nguyễn Ái Quốc được gắn
liền với cá nhân Nguyễn Tất Thành là vào tháng Giêng
năm 1920 và điều này xảy ra trong một báo cáo an ninh của
một nhân viên mật vụ Việt Nam Trần Quang Hàm, biệt
danh Jean (Văn Khố Lưu Trữ Quốc Gia, SLOTFOM, 6 I, 06 Tháng
1 1920 ). Jean đã viết rằng ông đã điều tra Nguyễn Ái
Quốc từ ngày 1 Tháng Mười Hai 1919; rằng ông ta
sống tại số 6 Villa des Gobelins; rằng ông ta đã từng ở
tại Mỹ và Anh trước khi đến Pháp cách đó bốn năm;
rằng ông có thể đọc và viết tiếng Anh và tiếng Pháp
thành thạo và có một số kỹ năng nói và đọc tiếng Ý
và tiếng Tây Ban Nha; rằng ông không nhận được hỗ trợ
tài chính từ bất kỳ tổ chức bí mật nào; rằng ông
đã viết rộng rãi trên các tờ báo tiếng Pháp, đề
xuất các cải cách trong các chính sách thuộc địa.
Một điểm của báo cáo này sai trắng trợn, cụ thể
là nói rằng ông ta có thể viết thành thạo tiếng Pháp.
Điều này mâu thuẫn với chính những gì Thành viết
trong cuốn sách của mình liên quan tới 8 điểm đòi hỏi
cải cách chính sách thuộc địa được gửi đến Hội
nghị Versailles (1919): tuy ý tưởng này được đề xuất
từ ông Nguyễn Tất Thành, nhưng sự viết lách đã được
thực hiện bởi luật sư Phan Văn Trường, vì tại thời
điểm đó, ông Nguyễn Tất Thành không có thể viết
tiếng Pháp (Trần Dân Tiến, trang 29). Sự thú nhận này
của Thành đã được lặp lại bởi Hồng Hà trong
Hồng Hà 1, p. 49: “Trong khi làm việc rửa hình ảnh để
kiếm sống, thanh niên Nguyễn siêng năng học tiếng Pháp
từ ông Phan Văn Trường”.
Nói dối về khả năng của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp
cho thấy rằng toàn bộ báo cáo của Jean không thể được
coi là có giá trị, hoặc thậm chí là Jean chỉ báo cáo
những gì Nguyễn Tất Thành muốn ông báo cáo. Điều thứ
hai này phù hợp với sự thú nhận của Jean ở nơi khác
rằng những thông tin trong báo cáo của ông đã được
rút ra từ một cuộc trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc khi
hai người đã ghé thăm Aeronautique Salon (và không phải từ
sự điều tra riêng của mình bằng cách sử dụng các
nguồn khác).
Thành muốn được ghi nhận rằng ông ta là Nguyễn Ái
Quốc, rằng ông ta đã đi và đã viết rất nhiều. Đối
với hiện tại lúc bấy giờ, những hồ sơ sự thật này
đang ở trong một góc tối và người Việt Nam chỉ biết
ông ta là Nguyễn Tất Thành. Nhưng sau đó, ông ta dự định
dành công những gì đã được thực hiện dưới cái tên
đó.
Các nhà nghiêng cứu ở Paris đã khai quật gần đây
nhiều bài báo, ký tên Nguyễn Ái Quốc và đã được
viết trước năm 1919, đó là trước khi Thành đến hoặc
khi anh ta còn đang cố gắng học tiếng Pháp từ Phan Văn
Trường. Hồ sơ cho thấy rằng Nguyển Ái Quốc là bút
danh của Phan Văn Trường, là người đã cho Nguyễn Tất
Thành ở tại số 6 Villa des Gobelins, đó là địa chỉ
được tuyên bố một cách chính xác bởi Thành trong báo
cáo của Jean. Điều này cũng được ghi nhận trong các
bài viết của Hồng Hà: “Ngay sau khi ông đến Paris,
Nguyễn Ái Quốc đến sống tại 6 Villa des Gobelins ... Đó
là nhà của luật sư Phan Văn Trường”; (Hồng Hà 1,
trang 47-48). Hồng Hà cũng có thể nói: “Nguyễn Ái Quốc
đến sống trong nhà của Nguyễn Ái Quốc”. Ngay cả các
an ninh mật vụ cũng coi Phan Văn Trường là Nguyễn Ái
Quốc. Điều này dựa trên thực tế rằng các bài
báo và các tờ truyền đơn do Phan Văn Trường làm, đã
luôn luôn được ký tên thay mặt cho nhóm của người
Việt yêu nước: Nguyễn Ái Quốc. Đây là nhóm của Phan
Văn Trường. Nó bao gồm Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và
Nguyễn Thế Truyền. Chỉ sau đó nó đã thêm Nguyễn An
Ninh và Nguyễn Tất Thành.
Ngày 30 Tháng Một, năm 1920, nhân viên an ninh Pháp báo
cáo về các hoạt động tuyên truyền của người Việt
tại Pháp đã nói thêm: “Nguyễn Ái Quốc là người sáng
tác các tờ truyền đơn và các văn bản như yêu cầu 8
điểm của người Việt ... Ông đã hoạt động như là
một Tổng thư ký của “nhóm người Việt yêu nước”
và là thư ký của “ nhóm của người Việt cách
mạng” (thư khố quốc gia, SLOTFOM 1119). Nói tới Nguyễn
Ái Quốc, các phóng viên có nghĩa một cách rõ ràng là
Phan Văn Trường, bởi vì chính Nguyễn Tất Thành đã thú
nhận là chưa có khả năng để viết các loại văn bản
này và vì ai cũng đã được biết một cách rộng rãi
trong giới bảo mật rằng Phan Văn Trường là “linh hồn
của tất cả các hoạt động tại số 6 Villa des
Gobelins”.
NHỮNG CƯỚP CÔNG KHÁC
Tại Paris, Nguyễn Tất Thành đã lừa gạt một nhân
viên thân thiện vào việc xác định anh ta bằng cái tên
Nguyễn Ái Quốc. Ba mươi năm sau, tại Hà Nội, ông ta đã
cướp những công việc thực hiện tại Paris dưới cái
tên đó và đã viết trong cuốn sách của ông: “Ông
Nguyễn Ái Quốc (tự xưng) đã tổ chức người Việt yêu
nước ở Paris và ở các tỉnh và đã dẩn dắt nhóm lo
việc giới thiệu đòi hỏi 8 điểm tại Hội nghị
Versailles năm 1919”(trang 29).
Năm 1925, một tài liệu gọi là “Diển tiến chống
lại Chế độ thuộc địa Pháp” được xuất bản ở
Paris bởi Thư Viện du Travail (Quai de Jemmapes, 96 Paris). Mở
đầu bởi Nguyễn Thế Truyền, một trong 3 thành viên của
nhóm, tài liệu bao gồm 3 khối, đầu tiên do Nguyễn Ái
Quốc, thứ hai của Nguyễn Thế Truyền và thứ ba của
Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, chế độ Hà Nội tái bản tác
phẩm này mà không có lời nói đầu của Nguyễn Thế
Truyền và không có khối thứ hai của ông ta, để tạo
ấn tượng rằng toàn bộ công trình là do Nguyễn Ái
Quốc. Thực hiện xong điều này, Thành và các văn nô của
mình đã sẵn sàng để tuyên bố rằng ông là tác giả
duy nhất của Kỷ yếu này, bởi vì họ đã gây mê cho
công chúng tin rằng Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Tất Thành:
“Kỷ Yếu diển tiến chống lại Chế độ thuộc địa
Pháp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được xuất bản
tại Pháp trong năm 1925. nó đối ứng với những khó khăn
của người dân Việt Nam và các quốc gia khác dưới sự
cai trị dã man của thực dân Pháp” (Su Publ 2, p. 100).
Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc, tác giả của khối đầu
tiên và thứ ba, là Phan Văn Trường, không phải Nguyễn
Tất Thành; bởi vì ở Paris, Phan Văn Trường sử dụng
tên này công khai, và rộng rãi và không thể tưởng tượng
rằng ông cố ý chuyển giao tên nhóm cho Nguyễn Tất
Thành, người thấp nhất trong bảng xếp hạng thành viên
của nhóm năm người của ông.
Loại bỏ Nguyễn Thế Truyền khỏi Kỷ yếu tạo điều
kiện cho sự xác nhận công cán của Thành và biểu hiệu
cho bước đầu tiên trong việc truất phế ông Nguyễn Thế
Truyền. Bước thứ hai là bôi nhọ được thực hiện bởi
Đặng Xuân Thiều, một trong những bộ hạ của Thành.
Công việc búa rìu này của Thiều được thể hiện dưới
hình thức của một bài thơ trào phúng rẻ tiền hình
dung Nguyễn Thế Truyền như là một tay chơi, một người
lăng nhăng, một người nói chuyện cách mạng rổng tuếch
chỉ để phục vụ thực dân Pháp và bỏ sang một bên
những nguyên nhân của thãm trạng đất nước.
Điều trớ trêu là vụ ám sát danh dự cá nhân
này đã được thông đồng, có lẽ được kêu gọi, bởi
Thành và nạn nhân của ông ta lại chính là người đã
cung cấp và hỗ trợ nhiều cho ông ta và còn là một mô
hình lãnh đạo thực sự. Nguyễn Thế Truyền đã tham gia
với hai anh em họ Phan để đấu tranh cho những cải cách
trong các chính sách của thực dân của Pháp và thúc đẩy
những chính sách cho lợi ích của Việt Nam. Ông đã
là thành viên của Đảng Cộng sản Pháp, nhưng rút lui
vào năm 1927 khi nó trở nên rõ ràng rằng chũ nghĩa cộng
sản là không thể chấp nhận được. Thành ở lại với
đãng cộng sản nhưng vẫn tiếp tục nhận sự giúp đỡ
của Nguyễn Thế Truyền, không chỉ cho bản thân nhưng
cho cả bạn bè của ông ta, những người cần một khoảng
thời gian đào tạo tại Paris trước khi đi tới Moscow.
Nguyễn Thế Truyền là người sáng lập và biên tập
viên của hai tờ báo: một bằng tiếng Pháp, gọi là Le
Paria (pariah), và ngôn ngữ Việt, được gọi là Việt Nam
Hồn (linh hồn của Việt Nam). Thành thừa nhận ngầm điều
này trong một báo cáo năm 1926 được gửi từ Trung Quốc
cho ông chủ của mình tại Moscow. Đặng Xuân Thiều người
đã viết một bài thơ bôi nhọ Nguyễn Thế Truyền, đã
thêm các chú thích sau đây vào tác phẩm của mình: “Việt
Nam Hồn - 3 chử đầu tiên của câu 15 – là tên của tờ
báo của đảng quốc gia thành lập bởi Nguyễn Thế
Truyền”. Nhưng tất cả những sự thật này không ngăn
chặn những người nịnh bợ Thành chiếm đoạt công cho
chủ nhân của họ. Vì vậy, Hồng Hà đã trơ trẻn viết:
“Suy nghĩ về đồng bào của mình và nhận ra rằng sự
nhận thức sẽ đòi hỏi sự tuyên truyền, giáo dục,
Nguyễn Tất Thành đã quyết định tạo ra một phương
tiện thông tin trong ngôn ngữ Việt với cái tên Việt Nam
Hồn” (Hồng Hà 1, trang 189).
Lấy tên Nguyễn Ái Quốc cho phép Thành cướp công bất
cứ điều gì được thực hiện dưới cái tên đó: như
là tổ chức, biểu tình, yêu cầu 8 điểm, thủ tục
chống lại chính sách thực dân Pháp, các ấn phẩm… Tuy
nhiên, Phan Văn Trường luôn luôn sử dụng bút danh Nguyễn
Ái Quốc để đại diện cho nhóm của ông. Điều này
khiến nhiều người Việt sinh sống tại Paris vào thời
gian đó coi tên Nguyễn Ái Quốc là tên của nhóm. Để
đảm bảo thành công, việc cần thiết cho Thành và người
của ông ta là đánh phá uy tín không chỉ Nguyễn Thế
Truyền mà cả hai nhà lãnh đạo khác, cụ thể là Phan
Chu Trinh và Phan Văn Trường.
Trong cuốn sách của ông ta, Nguyễn Tất Thành đã viết:
“Cần lưu ý ở đây là Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường
đã không ủng hộ các hoạt động của các nhóm người
Việt yêu nước” (trang 29). Sau đó, Hồng Hà quay thêm
sợi chỉ này: “Phan Chu Trinh không thích đào tạo và
nghiên cứu. Ông rất thích chơi bi-da tại Ludeau, 14 rue de
Sorbonne ... Phan Văn Trường tránh né các hoạt động của
người dân, không kiên định, hay sợ hải và cố gắng
để tránh vướng mắc”. Nói xong vậy, Hồng Hà ngay lập
tức bịa đặt một báo cáo của Pháp nói rằng: “Có
dấu hiệu cho thấy suy nghĩ của Phan Chu Trinh là khác xa
của Nguyễn Ái Quốc …”